Phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lọc

Phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lọc

    1. Giới thiệu về tác phẩm Vợ chồng A Phủ và nhân vật A Phủ:

    Cùng với Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… Tô Hoài cũng là một trong những nhà văn tiêu biểu, xuất sắc lúc viết về đời sống của nhân dân Việt Nam những năm trước và sau Cách mệnh Tháng tám thành công. Trong đó, nổi trội nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài ở mảng văn học hiện thực là tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

    “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh trung thực nhất thế cuộc và những số phận xấu số của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức, bóc lột của bọn địa chủ phong kiến. Nhưng nổi trội hơn cả là khát vọng và ý chí sống mãnh liệt.

    A Phủ là nhân vật để lại cho người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công lúc khắc họa nhân vật này. A Phủ ko phải là nhân vật xuất hiện ở đầu truyện mà nhịn nhường như khiếp sợ người đọc mãi ko thôi. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa làm người thương, vừa làm người khâm phục.

    2. Bài phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lựa hay nhất:

    Tô Hoài như một cuốn tự điển sống, một cuốn sách sống. Ông mang vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối kể hóm hỉnh, vốn từ phong phú, thông minh, miêu tả đậm nét những hình ảnh chuyển động. Ông đã viết thành công truyện Truyện Tây Bắc, trong đó mang truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi khắc khoải, vươn lên của người Mèo vùng Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu và hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người đó là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này

    Năm 1952, Tô Hoài cùng đoàn quân tiến vào phóng thích Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem lại cho người viết dòng nhìn sâu sắc và tình cảm đối với con người và cảnh vật vùng Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc”

    Tác giả để A Phủ bất thần xuất hiện trong trận chiến đấu với A Sử – con trai nhà thống lí, để rồi A Phủ bị bắt, bị đánh đập, bị nộp phạt và nợ nần. Rồi kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa thu hút sự chú ý của người đọc, vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.

    Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, ko người thân thích trên đời, bị dân làng bắt bán cho người Thái ở miền xuôi. Mười tuổi, A Phủ ngang bướng, ko thích sống ở miền xuôi, trốn lên núi, phiêu bạt tới Hồng Ngải. To lên ở miền sơn cước, A Phủ là một chàng trai cường tráng, “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, cày giỏi, săn bò tót dũng cảm”. Nhiều cô gái trong làng mê mẩn, bảo nhau “Người nào lấy được A Phủ thì bằng con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc sẽ giàu to”. Người ta đùa thế thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Ko cha mẹ, ko ruộng vườn, ko tiền nong, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy được vợ? Nếu ở một xã hội khác, A Phủ xứng đáng được lợi hạnh phúc. Tuy nhiên, A Phủ bị giày xéo, đối xử bất công. Nếu ko nhờ Mị giải thoát thì A Phủ đã chết dưới tay thống lí Pá Tra.

    Tính cách gan góc của A Phủ bộc lộ từ năm lên 10. Được nung đúc bởi cuộc sống hoang dại của núi rừng và hoàn cảnh sống của người lao động khổ sai đã tạo nên một A Phủ mang cá tính mạnh mẽ và liều lĩnh. Ngay lúc xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dễ đoán: “bỏ chạy”, “vung tay”, “lao tới vồ lấy” “kéo đầu, xé, đánh…”. A Phủ là người bộc trực, nóng tính, thiệt thà.  A Phủ đánh A Sử để trừng trị sự ích kỷ của hắn nhưng do là người yếu thế trong xã hội phong kiến A Phủ bị nhà thống lí bắt, bị đánh đập suốt đêm cho tới lúc “mặt A Phủ sưng vù, môi và mắt chảy máu”, “đầu gối sưng vù như rắn mang bành” . Tuy nhiên, A Phủ lại “lặng như tượng đá” thể hiện sự dũng cảm, dám làm dám chịu của mình và kể từ đấy A Phủ trở thành người hầy kẻ hạ cho nhà Thống lí.

    Vì bận bẫy nhím, để hổ bắt bò, A Phủ trở về bị Thống lí trói đứng và đánh một cách man rợ, chịu dòng đói trong dòng lạnh cắt da cắt thịt, A Phủ ko chịu, đành cắn đứt hai vòng dây mà ko thoát ra được. A Phủ đã khóc trong vô vọng. Những giọt nước mắt của một chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải đắng cay buông tay trước số phận nghiệt ngã đã làm xúc động trái tim người đọc. Ta thấy rõ hơn gương mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền sơn cước xưa.

    Nhân vật A Phủ được khắc họa thành công, óc quan sát nhạy bén và khả năng nắm bắt tính cách con người thiên bẩm là hai yếu tố giúp nhà văn tạo nên một hình tượng độc đáo chỉ bằng vài nét vẽ đơn thuần. Thông qua nhân vật A Phủ, trị giá hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng nổi trội.

    3. Bài phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lựa ý nghĩa nhất:

    Vợ chồng A Phủ là tác phẩm tiêu biểu lúc tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm độc đáo này sau đó đã được dựng thành phim và được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Cùng với đó, những nhân vật trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã trở thành những nhân vật tiêu biểu. Trong đó nổi lên hình tượng A Phủ mang vẻ đẹp của con người Tây Bắc và bản lĩnh trước số phận.

    Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu lúc giới thiệu nhân vật Mị trong một cảnh tình yêu đầy nghịch lý và lôi cuốn người đọc: “Người nào ở xa về, mang dịp vào nhà thống lý Pá Tra, thường thấy một cô gái ngồi quay sợi gai kế bên. dòng bệ đá trước cửa, cạnh con ngựa, lúc nào cũng vậy, dù kéo sợi, cắt cỏ ngựa, Ôm vải, giăng bừa hay mắc võng dưới khe, bà đều cắt mặt, mặt buồn cười”. Và từ một hình ảnh đó, rồi lúc nối sợi dây xích lại với nhau, tác giả đã làm nổi trội hình tượng nhân vật trong tác phẩm, cũng chính điều này đã làm cho hai nhân vật A Phủ và Mị mang dịp gặp nhau.

    A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh, chẳng may A Phủ đánh nhau với A Sử, con trai thống lý Pá Tra, chính vì thế A Phủ bị bắt và bị đánh đập man rợ. Sau câu chuyện tình này, tác giả khởi đầu giới thiệu hoàn cảnh của A Phủ, anh là một người nghèo khổ, mất cả cha lẫn mẹ, sống thế cuộc mồ côi ko người nào chăm sóc. Và chói lọi hơn lúc dân làng đói khổ bắt A Phủ đi bán để thu hút người Thái ở rẫy. Nhưng ko cam chịu số phận, 10 tuổi A Phủ đã một mình bươn chải kiếm sống, học nhiều nghề để tự nuôi sống bản thân. Ngay từ nhỏ, chịu số phận đắng cay, A Phủ đã biết vượt qua và đấu tranh với số phận, ko để số phận làm khổ mình. Sức sống tiềm tàng của một con người sớm được bộc lộ, ko chỉ lúc còn nhỏ mà lúc to lên, A Phủ là một thanh niên kiệt xuất, hiền lành, chịu thương chịu thương chịu khó. Ko chỉ vậy, A Phủ, theo miêu tả của Tô Hoài, là người mang sức khỏe tốt hơn người khác.

    A Phủ cũng là người mang lối sống phóng khoáng, yêu cuộc sống công bằng nên lúc gặp chuyện bất bình, dù biết trước số phận sẽ thuộc về mình và ko biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết ra tay. dòng đó. Ở đây ta thấy A Phủ là một người tinh ý và đức độ.

    Hơn nữa, vì lối sống phóng khoáng và sức khỏe tốt hơn nên anh thu hút nhiều sự chú ý của mọi người. Nhiều cô gái yêu A Phủ, nhưng vì tục cưới khắc nghiệt trong xã hội miền núi phong kiến đương thời nên A Phủ bị khinh rẻ và một lý do nữa, làm sao A Phủ mang đủ tiền ăn hỏi và cưới vợ.

    Lúc bị bắt về nhà thống lí, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Với bản tính của mình, A Phủ ko kêu ca, ko van xin một lời, A Phủ ko bao giờ khuất phục trước bất cứ người nào. A Phủ bị đánh đập man rợ, mặt mũi hếch lên, máu mũi trào ra. “Cứ thế, càng chiều, càng đêm, càng hút, càng thức, càng đánh, càng đuổi, càng hút”. Câu văn miêu tả rất trung thực cảnh xử thế độc đáo của ông, mang những lúc nhà văn nhắc tới hình ảnh say sưa hút thuốc ngoài cửa sổ, ông cũng sử dụng câu liệt kê, thống kê. Phép thống kê cú pháp nhằm nhấn mạnh bản tính man rợ của bọn thống lý trong nhà Pá Tra đối với người dân miền núi Tây Bắc thời thuộc địa. Bị trừng trị, A Phủ trở thành kẻ ko công sát cánh cùng quần chúng nhân dân. A Phủ mang thể cưỡi ngựa, cày ruộng, phát rẫy, săn bò tót, hổ, chăn bò, chăn ngựa, một mình quanh năm rong ruổi trong rừng, trong rừng mang trẻ đói, gấu thường kéo tới bầy đàn. gia súc, A Phủ phải ở trong rừng hàng tháng. Nhưng ông ko nói lại một lời nào, mà chấp nhận vì đồng bào bị áp bức, đàn áp nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận vì bản thân ko mang gia đình, ko mang nhà cửa, hơn nữa nếu phạm tội thì cũng phải trừng trị. Nhưng lúc một chuyện xảy ra, đó là lúc hổ vồ mất con bò, A Phủ kiên quyết cãi lại Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng, anh phải tự tay làm một cuộn mây cho người ta mặc. Ở nhà thống lý Pá Tra, tính mệnh của hắn thực sự bị khinh miệt, hắn phải mang thân phận một con bò bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt nơi hõm gò má xám xịt là giọt nước mắt đắng cay, đơn chiếc, bất lực và vô vọng.

    Tuy nhiên, ta mang thể thấy ở A Phủ mang một sức phản kháng rất mạnh mẽ được nuôi dưỡng từ thuở thơ ấu. Anh ta bị đánh trong phiên tòa vì phạm tội, nhưng lúc mất con bò đực, anh ta sẵn sàng chịu trách nhiệm và anh ta tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân tới vai, nhưng ban đêm anh bám vào nhà xem hai vòng dây mây, anh tìm cách tự giải thoát. Đồng thời, lúc được Ta cứu, lúc đó hắn đã kiệt sức vì bị phong toả, khát nước và đớn đau suốt mấy ngày. Nhưng vì dòng chết sẽ tới sớm thôi, nên anh đã mang đủ nghị lực để đứng dậy chạy trốn khỏi gông xiềng của công lý, khỏi ách nô lệ. Mị chạy theo muốn đồng hành A Phủ, A Phủ cho Mị đi theo, Mị ko cứu được mình mà còn cứu được mình.

    Trốn khỏi nhà thống lí, A Phủ tìm một vùng đất mới để sinh sống. Tại đây, cũng như bao người dân khác, ông phải chịu cuộc sống cực khổ dưới ách áp bức của bọn thực dân phong kiến, nhưng lúc gặp được những cán bộ cách mệnh, ông đã nhanh chóng trở thành một nhà cách mệnh, một quần chúng. họ. Một thủ lĩnh du kích dũng cảm tiêu biểu cho khả năng cách mệnh to to của đồng bào miền núi Tây Bắc. Hình ảnh lúc A Phủ giác ngộ chân lý cách mệnh là hình ảnh đẹp, ko chỉ của A Phủ mà còn là hiện thân của những kẻ lường đảo vùng Tây Bắc.

    Bằng ngòi bút tài hoa và cách miêu tả tinh tế, Tô Hoài đã làm nổi trội hình ảnh và khí phách của A Phủ – nhân vật tiêu biểu trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ vẫn phải đấu tranh để giành lấy hạnh phúc, họ phải trải qua biết bao đau thương, đắng cay để tự phóng thích bằng chính sức mạnh tự phát của mình.

    4. Bài phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lựa ấn tượng nhất:

    Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc ko khỏi ấn tượng với nhân vật A Phủ – một chàng trai dân tộc mang số phận xấu số nhưng mang phẩm chất phi thường.

    A Phủ được giới thiệu là một đứa trẻ mồ côi, một mình bị bán vào Đồng Tháp, phiêu bạt ruộng đồng rồi phiêu bạt tới Hồng Ngải. Từ nhỏ A Phủ đã hào hoa, dũng cảm. Một chàng trai tốt bụng, ko ngại công việc nặng nhọc, nguy hiểm là niềm ước mong của biết bao cô gái. Tuy nhiên, A Phủ vẫn ra đường ngày Tết với ước mơ tìm được bạn tình. Cho thấy đây là một chàng trai thèm khát hạnh phúc và tình yêu.

    A Phủ như con, như chim ở vùng núi Tây Bắc. Nhân vật A Phủ rơi vào hoàn cảnh trớ trêu qua việc làm phi lý của gia đình thống lí Pá Tra. Từ nhiệm vụ xử lý sự việc này, A Phủ từ một cậu bé tự do yêu đời trở thành nô lệ vĩnh viễn cho nhà thống lý. Nguyên nhân cũng bởi A Phủ đã dũng cảm đánh A Sử.

    Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một chuỗi động từ mạnh: lao ra, vung tay, ném, lao tới, giật lấy sợi dây chuyền, kéo đầu anh ta xuống, xé áo, đánh anh ta. Đọc đoạn văn này, người đọc mang cảm giác hể hả chứng kiến cảnh một cậu bé nghèo bị đánh đập trong đám cưới con một vị quan thân tín.

    Tuy nhiên, tất cả những giấc mơ đó đã kết thúc lúc anh trở thành nô lệ của thống đốc. Bản án trong phiên tòa này: Ban sơ A Phủ bị kết án tử hình, sau đó được trả tự do. Với nhà thống lý Pá Tra, A Phủ sống để làm lụng trả nợ (trả vạc 100 đồng tiền trắng). Một ngày nọ, cậu bé yêu tự do bị biến thành vật gia truyền.

    Hai tác phẩm tuy khác nhau nhưng cách thức bị trói buộc, hành tội về thể xác lẫn ý thức của hai nhân vật ko liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách chúng thống trị, thống trị những địa phương hoang mang của đồng bào trước Cách mệnh phóng thích. A Fu buộc phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm và trở thành nô lệ ko được trả lương do một món nợ ko bao giờ trả được.

    A Phủ thậm chí ko nghĩ tới việc thoát khỏi thế lực kinh khủng của thống lí Pá Tra. Dù làm mướn việc nặng nhọc, gian khổ nhưng chỉ cần một sai trái thôi cũng đủ làm A Phủ thống khổ. Tai họa ập tới với A Phủ lúc chàng vô tình để hổ ăn thịt một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Cuộc thế của một tên trộm dữ liệu ko bằng một kẻ lường đảo.

    Nhà thống lí bị mất bò nhưng A Phủ phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một kẻ mang hành vi man rợ, phi nhân tính để thống trị, khinh thường tính mệnh của những người lao động chân chính. Nhưng cũng từ nỗi xấu số này mà A Phủ và Mị gặp nhau thật bất thần và cảm động.

    Từ cô bé vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ vấn vít lấy Mị, Mị vẫn ung dung: “A Phủ là xác chết, vẫn thế thôi”. Nhưng lúc nhìn vào, ta thấy đôi mắt A Phủ ngấn nước: “long lanh xuống đôi gò má xám xịt”. Đây là một tác phẩm nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu và sức sống trong tôi. Tôi nhớ ngay tới cảnh tôi bị trói vào một đêm mùa đông và ko mang người nào tới cứu tôi.

    Với thể, nước mắt của con người đã chạm tới trái tim của những nhà văn và họ luôn tìm cách khai thác nó để trị giá của nó trong tác phẩm của họ. Ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam Cao còn mang truyện ngắn Giọt nước mắt và nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh giọt nước mắt mang một ý nghĩa vô cùng quan yếu.

    Với Nam Cao, “nước mắt là vong hồn con người”, “nó mang thể thanh lọc tâm hồn con người”. Rẻ, lúc miêu tả dòng nước mắt lăn dài trên đôi gò má xám đen của A Phủ – một chàng trai Mông mạnh mẽ, dũng cảm khác thường sắp trở thành dòng xác trên cây nho cạnh nhà thống lý, Tô Hoài cũng đã nghĩ tới điều này?

    Chính nhờ những giọt nước mắt đó mà Mị đã quyết tâm cắt dây trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp đối mặt với bờ vực của dòng chết. Nhưng lúc cắt xong dây trói, tôi lại hoảng sợ, sợ mình phải chết thay A Phủ, bị trói vào gốc cây cho tới chết vì sự tàn bạo của thống lí. Mị nhanh chóng đưa ra quyết định sáng suốt: “A Phủ thả tôi đi”, “Tôi sẽ chết ở đây”. Khát vọng sống, khát vọng sống và tình yêu của Mị đã cứu cả Mị và A Phủ thoát khỏi “địa ngục trần gian”.

    Qua tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã xây dựng thành người lao động vật A Phủ với hình tượng người lao động thèm khát tự do, yêu cuộc sống. Từ đó, tác giả cảm thấy mình tài hoa hơn và mang niềm thông cảm sâu sắc đối với những người dân lao động nghèo khổ, xấu số.

    5. Nhận xét chung nhân vật A Phủ:

    Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật A Phủ hiện lên thật độc đáo và quyến rũ. Nhân vật yên tĩnh, thiên về hành động. Cùng với Mị, thế cuộc A Phủ mang ý nghĩa tượng trưng cho số phận, phẩm chất, con đường đi của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của thế cuộc thống khổ, tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng chói lọi của phẩm giá, ánh sáng của tự do và cách mệnh. Đó cũng chính là trị giá mới mẻ, nhân đạo sâu sắc của tác phẩm thơ này.


      --- Cập nhật: 13-04-2023 --- nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Top 16 bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lọc từ website hoatieu.vn cho từ khoá phân tích nhân vật vợ chồng a phủ.

      Phân tích nhân vật Mị - Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài được nhà văn miêu tả là một cô gái xinh đẹp, mang đời sống ý thức phong phú nhưng thế cuộc rất bi thảm từ lúc về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Tuy nhiên với sức sống tiềm tàng mãnh liệt của mình, Mị đã ko đầu hàng số phận để thoát khỏi sự áp bức tàn bạo và vùng lên phóng thích cho chính bản thân mình cũng như những số phận bị áp bức khác. Sau đây là dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ cùng với những bài văn mẫu phân tích hình tượng nhân vật Mị siêu hay Hoatieu xin san sớt tới độc giả.

      • Phân tích tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
      • Top 7 mẫu tóm tắt Vợ chồng A Phủ hay nhất
      • Top 5 bài Cảm nhận Vợ chồng A Phủ siêu hay

      Nhân vật Mị trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài là một hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức. Thông qua hình tượng nhân vật Mị, tác giả đã tố cáo tội ác của thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Trong bài viết này Hoatieu xin san sớt những bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị, phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân để những bạn hiểu rõ hơn về nhân vật Mị trong tác phẩm.

      1. Dàn ý phân tích nhân vật Mị

      I. Mở bài

      Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông mang vốn tiếng nói phong phú, lối tường thuật tự nhiên.

      Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiếu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.

      Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

      II. Thân bài

      1. Mị vốn là cô gái mang những phẩm chất tốt đẹp

      - Trước lúc về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

      Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, mang tài thổi sáo “thổi lá cung hay như thổi sáo mang biết bao nhiêu người mê”

      Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn thèm khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
      Hiếu thảo, siêng năng, ý thức được trị giá cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

      2. Nạn nhân của những áp bức bất công

      Lúc về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “ko bằng con trâu con ngựa”, “phụ nữ trong dòng nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, ...

      Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, ... đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, ko quan tâm tới thời kì “lỗ vuông bằng bàn tay ...ko biết là sương hay nắng”.

      Mị sống lầm li “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong dòng khỏ Mị quen rồi”.

      3. Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị

      - Lúc bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị mang ý định tự tử bằng lá ngón, ko chấp nhận cuộc sống mất tự do.

      - Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

      Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.

      Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, thèm khát tình yêu hạnh phúc.

      Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.

      Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do

      Ý thức phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” kết thúc sự tù đày.

      Lúc A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu tới những đám chơi.

      Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

      - Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống đó luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ mang thời cơ để bùng lên mạnh mẽ.

      - Lúc A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

      Ban sơ Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là dòng xác ko hồn.

      Lúc thấy giọt nước mắt của A Phủ làm Mị đồng cảm, chợt nhớ tới hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có nhẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, ... phải chết”.

      Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

      Mị sợ dòng chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.

      - Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

      III. Kết bài

      Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.

      Nghệ thuật: tiếng nói, cách nói đậm chất miền núi, lối tường thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn tường thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

      Tác phẩm chứa đựng trị giá nhân đạo sâu sắc: sự thông cảm với số phận thống khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

      2. Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 1

      Tô Hoài là một nhà văn to, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập "Truyện Tây Bắc" đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.

      Article post on: nongdanmo.com

      Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều trị giá tư tưởng to. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.

      Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và mang tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức quyến rũ của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản tới đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Ko chỉ xinh đẹp, ở nàng còn tập kết những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại siêng năng trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.

      Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã làm gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ siêng năng làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.

      Nhưng xã hội cường quyền lại ko cho phép Mị sống thế cuộc tự do đó. Cuộc thế Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái rất đỗi hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được phẩm giá và trị giá bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc thế cuộc cô.

      Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải lặng lẽ chịu đựng bao nỗi bất công, thời kì đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm tới dòng chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén lâu nay. Nhưng lúc nghĩ về cha, thương cha nàng lại ko đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận thế cuộc cùng cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.

      Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và ý thức, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng ngơi nghỉ. Mị như một dòng máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay tới đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, ko việc nào là ko tới tay Mị.

      Thể xác bị bóc lột, ý thức Mị cũng ko sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, ý thức bị tê liệt tới thống khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời kì và cuộc sống ngoài kia. “Ở dòng buồng Mị nằm, kín mít, mang một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, ko biết là sương hay là nắng”. Nhường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.

      Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng ko gì mang thể ngăn nổi. Lúc mùa xuân tới, ko khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, làm Mị bổi hổi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình làm tâm hồn tươi trẻ của Mị như mang dịp trỗi dậy, lòng Mị rộn rực sức sống mùa xuân "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước".

      Từ niềm rộn rực, phấn chấn đó đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm lâu nay vây quanh thế cuộc Mị, nhen nhóm ngọn lửa kỳ vọng cho thế cuộc chính mình. Rồi Mị "quấn tóc lại với tay lấy dòng váy hoa vắt ở phía trong vách", Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân đó.

      Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tiễn phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu đó. A Sử lúc biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột làm cô đớn đau ko thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành tội vẫn ko thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.

      Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đớn đau, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát thế cuộc mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời kết thúc thế cuộc nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.

      Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhõm mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, khắc nghiệt của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.

      Tóm tắt tác phẩm văn xuôi là một trong số những kĩ năng quan yếu và cơ bản lúc bạn tiếp cận với văn bản, vậy với yêu cầu Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, bạn đã chọn những chi tiết truyện tiêu biểu nào để giúp bài tóm tắt của mình đầy đủ, súc tích và chặt chẽ, giúp người khác mang thể hiểu khái quát nhất nội dung mà ko cần phải đọc cả tác phẩm?

      3. Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 2

      Tô Hoài là nhà văn to của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm mang một trị giá hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc thù truyện đã xây dựng thành người lao động vật Mị, qua đó ca tụng vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng tới với cách mệnh của nhân dân Tây Bắc .

      Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với lính phóng thích Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Người nào ở xa về, mang dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy mang một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô đó cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

      Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái lặng lẽ lẻ loi, lặng lẽ như lẫn vào những vật vô tri: dòng quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu mang nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận thống khổ , xấu số nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.

      Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị mang nhan sắc, và mang khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hứa hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một thế cuộc bạc phận. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.

      Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái đó, con người với danh tức là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị ko chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn mang lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, phụ nữ con gái ở dòng nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.

      Song nhà văn còn khắc họa đậm nét nỗi thống khổ về ý thức của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rộn rực yêu đương, hiện tại lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với dòng cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng ko biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với thế cuộc, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được đựng lên nhân danh quyền sống. Loại chế độ đó đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô sức sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

      Mị đã từng muốn chết mà ko được chết, vì cô vẫn tồn tại món nợ của người cha. Nhưng tới lúc mang thể chết đi, vì cha Mị ko còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết tức là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống ko ra sống, tức là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn lúc đã ko thiết chết, tức là sự tha thiết với cuộc sống cũng ko còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là dòng xác ko hồn của Mị mà thôi.

      Sức sống của Mị nhịn nhường như mất đi. Nhưng bên trong dòng hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc mang thể bị vùi lấp, bị quên lãng trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì thống khổ, nhưng ko thể bị tiêu tán. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bỗng nhiên cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .

      Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm đó mang sức làm say đắm lòng người tuổi xanh. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của những loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì thống khổ. Tác nhân quan yếu là tương đối rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say tới lịm người đi. Loại say song song vừa gây sự quên lãng vừa đem về nỗi nhớ. Mị quên lãng thực tiễn (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà ko nghe, ko thấy và cuộc rượu lúc nào cũng ko hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan yếu hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn mang dòng quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người mang chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, ko mang lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

      Nhưng tác nhân mang tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có nhẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi xanh. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc đó, ta mới thấy Mị đầy rẫy những tranh chấp. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra dòng lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lúc lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ trước tiên là được chết ngay đi.

      Nhưng rồi nỗi khiếp sợ và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ to dần, cho tới lúc nó xâm lấn hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới lúc Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời khắc đó Mị mới mang hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm dòng váy hoa, rồi rút thêm dòng áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên ko nhìn thấy A Sử bước vào, ko nghe thấy A Sử hỏi“.

      Rồi dòng gì tới đã tới. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tiễn ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay tức thì giấc mơ của kẻ mộng du. Loại cảm giác về hiện tại thảm khốc, Mị chỉ cảm thấy lúc vùng chân bước theo tiếng sáo mà thủ công đau ko cựa được. Nhưng nếu dòng mơ ko tới một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa dòng mơ và dòng tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng hiện tại thì theo chiều trái lại, tỉnh dần ra, đớn đau và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.

      Nhưng có nhẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, thích thú săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó ko phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh xâu xé trong toàn cầu nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là dòng xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt khởi đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm đó A Phủ khóc. Một dòng nước mắt óng ánh bò xuống hai má đã sạm đen. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đớn đau và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm ko biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.

      Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhìn thấy mình cũng từng mang những thống khổ, mới mang thể thấy mang người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần mang tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng tình cảnh. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là phụ nữ … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất thần chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.

      Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ mang lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.

      Vợ chồng A Phủ qua việc khắc họa sâu sắc thế cuộc, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, gang thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và dẻo dai của những người lao động. Đặc thù đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời kì của Vợ chồng A Phủ trong những tháng ngày sưu cao thuế nặng. Để mang tiền nộp sưu cho chồng (thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ tới thế là cùng, nhưng người phụ nữ xấu số đó còn mang một gia đình.

      4. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3

      Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa tặng thưởng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, thèm khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

      Mị là một cô gái xinh đẹp, siêng năng làm việc và mang tài thổi sáo giỏi. Chính vì vậy mà cô gái đó là niềm thèm khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Với biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Với thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô người nào cũng phải ước ao. Thế nhưng bước ngoặt của thế cuộc Mị đã dần chuyển sang hướng khác lúc cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp đó lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con lúc nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.

      Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng người nào cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc vần vật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra ko phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết mổ chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị ko khác gì một dòng xác ko hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà mang thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất mang “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, ko biết là sương hay là nắng”.

      Ý thức về cuộc sống của Mị nhịn nhường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong dòng khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì nhịn nhường như đã chết. Mị ko đãi đằng, ko kêu than cũng ko phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.

      Thế nhưng, “ngoài đầu núi thấp thoáng, đã mang tiếng người nào thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Ta tưởng hình như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng ko phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị lâu nay. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu đó như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những tháng ngày tuổi xanh nghèo túng nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã làm cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã mang một hành động thật ý nghĩa” “Mị tới góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy dòng váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này mang tức là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bước ra khỏi cuộc sống tối tăm đó, tới với tiếng sáo và những âm thanh rộn ràng ngoài kia để được sống là chính mình.

      Vậy mà nghiệt ngã thay, lúc Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và hiện tại Mị khóc, khóc cho dòng oan trái của một kiếp người thèm khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “ko bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ mòng giữa ý thức và thực tiễn cho nên cô mang ý định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau ko cựa được. Mị ko còn nghe thấy tiếng sao nữa”. Chính thực tiễn đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cực đó nói lên rằng, chỉ mang những phản kháng tự phát thì nhân vật ko thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng khởi đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

      Ngọn lửa thèm khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy lúc tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập man rợ, và hình ảnh “một dòng nước mắt óng ánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã làm cho Mị chợt nhớ lại dòng đêm mình cũng bị trói đứng vào dòng cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống mồm, xuống cổ mà ko cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng tình cảnh. Mị đã thấy được dòng bất công phi lý, sự tàn ác của cha con nhà thống lý và ko muốn thấy thêm một dòng chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ mang chết thì cô mới mang thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù, đớn đau nhục nhã này. Nhưng ko phải. Lúc thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy tới một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị ko muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.

      Source: nongdanmo.com

      Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca tụng phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu dòng đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.

      Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người nhịn nhường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này ko mang con đường cùng, chỉ mang những ranh giới, điều cốt yếu là phải mang sức mạnh để vượt qua những ranh giới đó”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý đó.

      5. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 4

      Đọc “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ta ko thể quên được hoàn cảnh thế cuộc của chị Dậu- thế cuộc của kẻ khốn khó cùng yêu thương… cho tới lúc đọc truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới nhận thấy rõ hơn, sâu sắc hơn nỗi khổ của người miền núi nói chung và tiêu biểu là nhân vật Mị. Một cô gái xinh đẹp hiếu thảo nhưng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến bất công tàn ác. Xã hội đó đã biến Mị trở thành một con người câm nặng, vô cảm, lầm lũi, nhưng cuối cùng con người đó ko chịu số phận tự vùng lên cứu người và giải thoát chính bản thân mình.

      Trước lúc về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, thổi sáo hay và mang nhiều chàng trai mê, cô siêng năng hiếu thảo với cha già, trong cô xoành xoạch khát vọng về một cuộc sống tự do. Nhưng món nợ truyền kiếp do bố mẹ Mị lấy nhau ko mang tiền vay thống lí Pá Tra năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô, đó là sợi dây oan trái đối với Mị. Hạnh phúc ko tới với Mị thời con gái, Mị đã bị A sử con trai thống lí Pá Tra bắt cóc đem về cúng trình ma Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị làm dâu nhưng thực chất là nô lệ, vùi dập, giày xéo tước đi mọi quyền sống của con người, từ đây Mị sống kiếp sống của con vật. Ở đoạn đầu của tác phẩm hình ảnh Mị “ một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ả cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách miêu tả này của Tô Hoài đã cho người đọc thấy được những trơ lì, vô cảm của Mị giống như kiếp con ngựa. Hình ảnh đó đối lập hoàn toàn với nhà thống lí quyền thế giàu mang “mang nhiều nương nhiều ruộng nhiều thuốc phiện nhất làng”. Trong công việc Mị lúc nào cũng cúi mặt xuống Mị nghĩ “ mình ko bằng con trâu con ngựa”. Căn buồng Mị ở như chuồng nhốt thú kín mít qua ô cửa sổ bằng bàn tay mình nhìn thấy chỉ thấy trăng trắng, ko biết là sương hay nắng. Nó thể hiện sự tù túng âm u lạnh lẽo giống như địa ngục trần gian hãm thể xác và tâm hồn của Mị. Mị ko chỉ bị tước đoạt về sức lao động mà còn bị áp chế về cả ý thức “ nó đã bắt mình về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết ở đây thôi”. Lúc mới làm dâu nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc, tủi cực Mị tìm tới dòng chết. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Nhưng Mị thương cha già “mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì người nào làm nương ngô ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko được con ơi!” Mị ném nắm là ngón xuống đất. Mị quay trở lại với kiếp sông trâu ngựa “sống lâu trong dòng khổ, Mị quen khổ rồi”. Những chi tiết gây khiếp sợ ngột ngạt bức bối về một nhà tù rùng rợn về số phận, kiếp người, thế cuộc bị áp bức nơi địa ngục trần gian. Nhà văn đã đựng lên tiếng nói đòi nhân quyền của con người. Tố cáo tội ác của xã hội phong kiến miền núi tàn ác vô nhân đạo đã làm tàn lụi niềm vui sống của con người. Nhưng điều đau xót nhất với Mị là phải sống với người chồng mà mình ko thương yêu lại còn bị đánh đập hành tội. Những đêm tình mùa xuân lại trở về trên núi cao, tiếng sáo tiếng khèn gọi bạn tình Mị muốn đi và nhẩm theo lời bài hát, Mị uống rượu. Nhưng khát vọng của Mị chưa được thực hiện thì bị A sử chặn đứng lại sử dụng một thúng sợi đay A sử trói đứng Mị suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói siết chặt làm cho da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra từng mảng, đớn đau xót xa Mị nghĩ “ kiếp mình ko kiếp ngựa”.

      Sau lúc A Phủ đánh A sử bị thương, Mị được cởi trói để đi lấy lá thuốc cho chồng “Mị cũng thức suốt đêm yên lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. Lúc đó, A sử bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm là thuốc xoa đều trên lưng chồng”. Những đêm đông trên núi cao dài và buồn nếu như ko mang bếp lửa làm bạn thì Mị sẽ chết tàn chết héo, mỗi đêm Mị trở dậy hơ tay, hơ lưng, ko biết bao nhiêu lần. Với đêm A sử chợt về thấy Mị ngồi đấy hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống bếp lửa. Hành động của A sử cho thấy hắn là một kẻ vũ phu, những quan niệm lạc hậu của xã hội phong kiến miền núi vẫn còn tồn tại.

      Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã ko để cho Mị sống mãi kiếp ngựa trâu mà còn phát hiện ở Mị dòng khả năng thay đổi thế cuộc. Khả năng đó bắt nguồn từ quy luật “ mang áp bức mang đấu tranh”. Đó là việc Mị cởi trói cứu A Phủ Với Mị là vậy còn với A Phủ những hành động đó còn tàn ác man rợ hơn. Trước hết điều đó được thể hiện ở màn xử kiện phạt vạ. Mở màn là hình ảnh đầy khiếp sợ A Phủ bị trói, bị đánh đập một cách tàn nhẫn “ người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ chửi, lại hút”. Tất cả cứ như một vòng tuần hoàn “ cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Hành động tàn ác đó đã làm “ mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt chảy máu”. Tất cả đâu chỉ mang vậy, sự tàn ác còn được thể hiện lúc A Phủ làm mất con bò để hổ ăn thịt, A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột ở giữa núi rừng mùa đông Hồng Ngài. Sương muối giá buốt lại bị bỏ đói. Chỉ là mất con bò thôi mà bọn chúng đã coi mạng sống của con người như một con động vật rẻ mạt, ko mang trị giá

      Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” này cả hai nhân vật đều chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu với thân phận phụ nữ, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị ko còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” và từ đấy Mị sống trong danh tức là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ.

      Chính nỗi đau xấu số của Mị và A Phủ cùng với sự tàn nhẫn độc ác của cha con thống lí Pá Tra đã làm thức dậy ý thức phản kháng của người phụ nữ yếu đuối. Tình thương tiềm tàng trong Mị ko chết, cũng như sức sống của Mị ko thể bị tê liệt hoàn toàn. Trong đêm đông rẻo cao đó sức sống của Mị đã hồi sinh lúc Mị bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ “ một ngọn lửa sưởi vừa bừng lên Mị cay mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước óng ánh đang bò xuống hai hõm má xám đen lại”. Giọt nước mắt của người đàn ông tràn đầy sức sống giàu can đảm nhưng ở đây đang ở thế vô vọng và oan ức đã mang tác động sâu sắc tới Mị. Giọt nước mắt đó đã làm Mị từ cõi quên tới cõi nhớ. Nhớ lại A sử đã trói Mị ko quên cảm giác uất hận đớn đau và từ đây trái tim Mị ko đơn chiếc nữa. Mị đã thấy được quân thù “ chúng nó thật độc ác” quá phẫn nộ “cơ chừng này chỉ đêm mai người kia sẽ chết,chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Cách ngắt nhịp ngắn và điệp từ “ chết” đã diễn tả những căm phẫn và xót thương đang ồ ạt dâng lên trong lòng Mị. Bởi hơn người nào hết Mị hiểu thế nào là chết đau, chết đói, chết rét, trên thân thể kia. Trỗi dậy trong lòng Mị lúc này là ý thức phản kháng mạnh mẽ, tình thương đã đem lại chó Mị sức mạnh làm Mị từ người phụ nữ vô cảm, cam chịu nô lệ trở thành người phụ nữ can đảm mạnh mẽ. Mị tính định cởi trói cho A Phủ, nhưng Mị nghĩ tới biết đâu A Phủ chạy trốn được Mị bị trói thay vào đó và chết ở đó thì sao?

      Nhưng dù nghĩ tương tự nhưng Mị cũng ko thấy sợ bởi lòng can đảm và sức mạnh trong Mị đã trở lại. Nó đã dẫn tới hành động táo tợn rút dao cắt đứt dây trói. Đây là hành động bất thần tới với cô nhưng lại là kết quả thế tất của sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong Mị. Mị đã chạy băng trong đêm tối theo người đàn ông xa lạ với khát vọng một tương lai tươi sáng hơn. Hành động quyết liệt và mạnh mẽ của Mị trong đêm đó ko chỉ phóng thích cho A Phủ mà còn phóng thích cho chính bản thân mình. Đồng thời đó Mị đã phải vượt lên hai sức mạnh của cường quyền và thần quyền để mang sức mạnh tự do đi theo con đường cách mệnh. Điều đó chứng tỏ rằng giai cấp thống trị mang thể đày đọa người lao động nhưng ko thể dập tắt được khát vọng sống và khát vọng tự do của họ.

      Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất độc đáo, những kể chuyện đi từ hiện tại tới quá khứ rồi lại tới hiện tại, cách kể chuyện tương tự để cho thấy được số phận cực khổ luôn sống trong đày đọa. Hơn thế chuyện còn sử dụng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc đặc thù trong đêm tình mùa xuân và trong đêm cứu A Phủ. Tô Hoài đã thành công lúc sử dụng hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ để coi đó là động lực cho Mị vùng dậy đấu tranh. Từ đó tới bước ngoặt thế cuộc của hai nhân vật

      Viết về thế cuộc và số phận của nhân vật Mị, nhà văn nhân danh quyền con người để nên án, tố cáo tội ác của bọn thực dân và phong kiến đã áp bức đọa đày tước đoạt quyền sống, quyền làm người của họ. Nhà văn ko chỉ thương cảm sâu sắc với nỗi thống khổ con người mà còn tán thành với khát vọng phóng thích, đồng thời còn mở ra cho họ con đường tươi sáng. Từ đó thấy được chiều sâu nhân đạo của nhà văn.

      6. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 5

      Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm mang trị giá hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời thống khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mệnh và phản ánh quá trình tới với cách mệnh của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.

      Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho tới lúc mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Mị bị coi như một thứ trang bị vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.

      Khổ đau, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại sức phụ nữ lúc nào cũng vậy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa của nhà thống tí. Mị sống lặng lẽ, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

      Ko những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về ý thức. Cô chán sống nhưng ko được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm thống khổ. Cuộc thế Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong thống khổ. Cô lặng lẽ ra vào như dòng bóng, ko một người bạn san sớt tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thể xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu ko mang bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng tới chết héo. Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ thế cuộc. Ko mang người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm tới ngọn lửa và coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!

      Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về thế cuộc bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra ko biết là đêm hay ngày, sương hay nắng.

      Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi xúc cảm của Mị hầu như tê liệt. Ý thức phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô ko lúc nào ngớt việc. Trước kia, mang lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô ko nghĩ tới dòng chết nữa vì đã quá quen với dòng khổ rồi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống ko còn ý nghĩa.

      Khổ đau kéo dài làm cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Nhường như mọi xúc cảm, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng ko hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống lặng lẽ, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vọng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…

      Rõ ràng, bản tính thực sự đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, xúc cảm tưởng như đã lụi tàn vì thống khổ đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được lợi hạnh phúc. Vì thế nên bỗng nhiên Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm thèm khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban sơ của Mị ko thể phóng thích được thế cuộc cô nhưng những giây phút trỗi dậy đó mang ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, mang ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội lúc gặp cơn gió mạnh.

      Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị ko cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử man rợ. Với người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ tương tự thôi và tới một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận mang tức là chấp nhận dòng chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng tới tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị thống khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Loại thương dòng ghét bùng lên, lấn lướt nỗi sợ, dẫn Mị tới hành động táo tợn ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.

      Đây là hành động bột phát xong nó là kết quả thế tất của cả một quá trình bị dồn nén, giận dữ về mặt ý thức hiện tại đã tới lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện thế tất của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị lâu nay nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình : ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự phóng thích mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong dòng địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây thảm khốc của dòng chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại thế cuộc.

      Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định ko bạo lực đen tối nào mang thể vùi dập được sức sống và thèm khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ mang sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mệnh mới phóng thích được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là trị giá nhân đạo to to của tác phẩm.

      7. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 6

      Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về ý thức lao động thông minh, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.

      Ông đã mang hơn nữa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ toạ nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996). Nhà văn đã gửi tới chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều tới mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng quê thành Hà Nội và những đề tài dành cho thiếu nhi. Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi trội của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc thù là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra tới lúc trốn khỏi Hồng Ngài.

      Trước hết, chúng ta thấy Mị là một cô gái con nhà nghèo, xinh đẹp, ham sống, mang đời sống ý thức phong phú. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị ko mang đủ tiền cưới, phải tới vay nhà thống lý, bố của Pá Tra hiện tại. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Tới tận lúc hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Nhưng đó ko phải là lý do để những chàng trai tốt bụng xà Mị. Trái lại, tới tuổi yêu đương, Mị được nhiều chàng trai mê say vì sắc đẹp. vì phẩm hạnh, suốt đêm đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mị. Và bản thân Mị cũng thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi lúc tiếng sáo vọng lại, lòng Mị cũng thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mặc dù ham sống như thế nhưng mang lúc Mị muốn tự kết liễu thế cuộc mình trong lần trốn về nhà bố. Thật ra, vì ham sống nên Mị ko chấp nhận kiếp sống tủi nhục, chết ngay trong cõi sống. Nhưng với Mị, thời khắc đó, dòng chết là phương tiện để giải thoát chứ ko phải là mục đích của Mị.

      Mặt khác, Mị là cô gái sớm gặp xấu số, thống khổ tới cùng cực đồng thời còn là một nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về ý thức. Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hứa hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi. Sự trinh trắng của người con gái bị A Sử cướp đoạt. Mị đau buồn mang tới hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã hái lá ngón ở trong rừng, giấu trong áo rồi trốn về nhà lạy chào cha lần cuối để tự tử. Nghe lời than vãn, phân trần của người cha ốm yếu, Mị ko đành chết bởi lẽ Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần hiện tại nữa. cho nên, Mị đành phải trở lại nhà thống lý để làm nô lệ. Mị bị giày xéo bị giày xéo sắp như chỉ còn là phương tiện biết nói: Ở lâu trong dòng khổ Mị quen khổ rồi. Hiện nay Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa (…) Mị cúi mặt ko nghĩ ngợi nữa. Mị bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn : con ngựa con trâu làm mang lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. phụ nữ con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc cả ngày lẫn đêm. nhịn nhường như Mị bị chai lì mọi cảm giác tới mất cả đời sống ý thức: mỗi ngày Mị càng ko nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở dòng buồng Mị nằm, kín mít, mang một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng ko biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong dòng lỗ vuông đó mà trông ra, tới bao giờ chết thì thôi. Sở dĩ Mị thủ phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc.Ở dân tộc H’mông thời trước mang những hủ tục: người con gái lúc bị “trình ma” thì coi như thế cuộc trở nên đen tối từ lúc đó: nếu chẳng may chồng chết thì người đó phải làm vợ người khác trong nhà, mang lúc là một người anh chồng già lụ khụ, mang lúc là một người em chồng còn ở tuổi xanh con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà đó! . (Tô Hoài - cảm tưởng về truyện Vợ chồng A Phủ). Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối : ta là thân phụ nữ, nó đã bắt tâ về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

      Thế nhưng, Mị là một cô gái mang sức sống tiềm tàng, một thèm khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. ko mang sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là lúc được ngoại cảnh tác động. lúc mùa xuân tràn về những làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vọng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất thèm khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa. Hành động của Mị góc nhà lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô ko cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. trong phút giây, Mị đã quên đi tình cảnh thực tiễn để hành động theo tiếng gọi thúc giục , tha thiết, rộn rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy dòng váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi. Bất thần, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn tóc trên cột. Nhưng dòng kiểu trói thời trung thế kỉ đó của A Sử vẫn ko dập tắt được lòng ham sống vẫn âm ỉ, tiềm tàng trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo du dương trầm bổng, tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi xanh mạnh tới nỗi tuy Mị bị trói nhưng vẫn ko biết mình đang bị trói. tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, và Mị cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: thủ công đau ko cựa được. Tuy cả đêm đó Mị phải trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức nhưng trong lòng cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui.

      Thật dữ dội làm sao dòng sức sống đó đặc thù hình ảnh a Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của than phận “ko bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, phiêu bạt tới Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ ko cúi, ko còn lúc lắc được nữa”. Nhìn tình cảnh A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ tiếng nói câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt đó như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc đó đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sang lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt óng ánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị , Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần hóc, nước mắt chảy xuống mồm, xuống cổ, ko biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói tới chết người phụ nữ ngày trước cũng ở dòng nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một cách táo tợn, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiền Sa: Lúc đó, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt nhắm mũi, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết mang người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng tương đối, ko biết mê hay tỉnh. Lần lần, tới lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng :”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, ko bước nổi. Nhưng trước dòng chết mang thể tới nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.

      Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Hành động trên đây mang xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân “, từ sự thôi thúc cấp bách của tình cảnh hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính thế cuộc của mình, Cứu A Phủ là Mị đã cứu mình một lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách man rợ: tầng địa ngục phong kiến và tầng tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, sức sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt. Đúng như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Ko người nào trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ mang tính chất tiêu biểu cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945-4975 nói chung.

      Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đề nén, giày xéo tới cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi đó đồng thời phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tàng của họ. Đó cũng chính là trị giá hiện thực và trị giá nhân đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện quyến rũ này.

      8. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 7

      Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề sắp gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những trị giá sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều xấu số, nhưng mang vẻ đẹp tâm hồn và mang sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.

      Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy thống khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. "Người nào ở xa về, mang dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy mang một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô đó cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".

      Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn kế bên dòng quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu mang nhưng sao mặt lúc nào "buồn rười rượi". Khuôn mặt đó gợi ra một số phận thống khổ, xấu số nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.

      Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô mang tài mang sắc, mang một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, mang rất nhiều người yêu và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.

      Nhưng số phận may mắn ko tới với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một thế cuộc bạc phận. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh tức là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực tới tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị ko chỉ là thân trâu ngựa, "Con trâu con ngựa làm còn mang lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, phụ nữ con gái ở dòng nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm" .

      Via @: nongdanmo.com

      Ko những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau ý thức ko lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rộn rực yêu đương, hiện tại lặng câm, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với dòng cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng ko biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với thế cuộc, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được đựng lên nhân danh quyền sống. Loại chế độ đó đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô sức sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

      Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng dòng chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Lúc cha Mị ko còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như một trang bị ko xúc cảm. Muốn chết tức là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống ko ra sống, tức là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn lúc đã ko thiết chết, tức là sự tha thiết với cuộc sống cũng ko còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước... cũng chỉ là dòng xác ko hồn của Mị mà thôi.

      Cuộc sống của Mị cứ thế lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong dòng hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, mang thèm khát sống tới mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc mang thể bị vùi lấp, bị quên lãng trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì thống khổ, nhưng ko thể bị tiêu tán. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bỗng nhiên cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.

      Chính ko khí mùa xuân của Hồng Ngài năm đó đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của những loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì thống khổ. Tác nhân quan yếu là tương đối rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, "uống ừng ực" rồi say tới lịm người đi. Loại say song song vừa gây sự quên lãng vừa đem về nỗi nhớ. Mị quên lãng thực tiễn (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà ko nghe, ko thấy và cuộc rượu tàn lúc nào cũng ko hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi ...), và quan yếu hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn mang dòng quyền sống của một con người: "Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người mang chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, ko mang lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau".

      Tiếng sáo thật mang ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi xanh. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc đó, ta mới thấy Mị đầy rẫy những tranh chấp. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra dòng lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lúc lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ trước tiên là được chết ngay đi.

      Hòa mình vào ko khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó to dần và xâm lấn hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới lúc Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: "Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi". Phải tới thời khắc đó Mị mới mang hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm dòng váy hoa, rồi rút thêm dòng áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên ko nhìn thấy A Sử bước vào, ko nghe thấy A Sử hỏi.

      Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tiễn ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay tức thì giấc mơ của kẻ mộng du. Loại cảm giác về hiện tại thảm khốc, Mị chỉ cảm thấy lúc vùng chân bước theo tiếng sáo mà thủ công đau ko cựa được. Nhưng nếu dòng mơ ko tới một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa dòng mơ và dòng tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng hiện tại thì theo chiều trái lại, tỉnh dần ra, đớn đau và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.

      Sức sống le lói của Mị đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, thích thú săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó ko phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh xâu xé trong toàn cầu nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: "A Phủ là dòng xác chết đứng đó cũng thế thôi". Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt khởi đầu từ những dòng nước mắt: "Đêm đó A Phủ khóc. Một dòng nước mắt óng ánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen". Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đớn đau và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm ko biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.

      Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những thống khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người mang cùng tình cảnh như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: "Mình là phụ nữ ... chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết". Nhưng lúc cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và bất thần chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.

      Phải nói rằng, nhà văn đã mang sự thông hiểu sâu sắc về cuộc sống của con người Tây Bắc, mang sự thông cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới mang thể phát hiện ra dòng vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ xấu số đó.

      Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo dòng thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và giày xéo nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật đó Tô Hoài đã ca tụng khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo khổ đó, đồng thời thể hiện sự kết đoàn viện trợ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong những trở ngại gian khổ.

      9. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 8

      Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ chồng A Phủ mang thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là thế cuộc đầy xấu số, thống khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn mang sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

      Mị là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bởi vậy sự xuất hiện của nhân vật được chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Mị gắn liền với những công việc lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này đã hé mở cho chúng ta thấy cả một toàn cầu nội tâm đầy thống khổ, xấu số. Rồi ngòi bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị - người con gái trẻ trung, xinh đẹp và rất tài năng. Tiếng sáo của Mị đã làm cho biết bao chàng trai xao xuyến đi theo. Ko chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất định muốn lao động để trả nợ chứ ko chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị tập kết đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ để được sống thế cuộc hạnh phúc song do những thế lực thần quyền giày xéo, đàn áp mà thế cuộc của cô vô cùng xấu số, đáng thương.

      Mị là hiện thân cho những thống khổ xấu số của người phụ nữ miền núi. Cô làm việc triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi khiếp sợ làm Mị ko thể nghĩ tới bất cứ điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Ko chỉ vậy cô còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ mang một ô cửa sổ bé bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, ko biết là sương hay là nắng. Ko chỉ vậy cô còn bị bóc lột về ý thức, lấy A Phủ về nhưng chưa bao giờ Mị được làm người vợ thực sự, bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, sẵn sàng trói đứng Mị mà ko hề tiếc thương. Ngoài ra, Mị còn bị áp chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại mang sức áp chế vô cùng kinh khủng. Lúc Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ ko thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho tới lúc chết. Sự áp chết nặng nề cả về thể xác và ý thức, từ cường quyền tới thần quyền đã đẩy Mị từ cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là lời tố cáo gang thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời.

      Nhưng liệu Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, mất đi hoàn toàn niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Thực tế chỉ cần mang những chất xúc tác thích hợp, đúng thời khắc thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành động. Ẩn sâu trong Mị vẫn mang khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.

      Sức sống tiềm tàng của Mị trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của yêu thương và phát sinh sự sống. Lấy thời khắc này là hoàn toàn hợp lí. Tâm lí Mị chịu tác động mạnh mẽ bởi những màu sắc tươi đẹp, rực rỡ, những âm thanh tươi vui, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất cả những yếu tố đó đã tác động tích cực tới tâm hồn Mị. Nhưng quan yếu nhất là sự tác động của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình. Bản thân việc Mị uống rượu ko lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại hết sức thất thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tiễn tìm về quá khứ. Và quan yếu nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo xuất hiện từ xa tới sắp, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, hạnh phúc .

      Cùng với tương đối men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tiễn, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà ko đi ra ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc đó tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị mạnh mẽ chối bỏ thực tiễn từ bỏ cuộc sống hiện tại. Mị bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ xắn một miếng, thắp đèn lên cho sáng. Hành động thắp đèn của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng ước mong, hi vọng cho thế cuộc của chính mình. Mị thèm khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và chuẩn bị đi thì Mị A Sử chặn đứng. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng dù thể xác Mị bị trói nhưng tầm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi cuộc sống hạnh phúc, và tự do của ngày trước.

      Với diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, nhưng vẫn vô cùng hợp lí, Mị đã mang cuộc nổi loạn trước tiên, sau rất nhiều năm sống trong giam hãm, tù đày, tưởng như đã mất hết hi vọng sống. Tuy chưa thể thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong Mị, chỉ cần thời cơ thích hợp nó sẽ bùng lên mãnh liệt.

      Nếu như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì trong đêm Đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động từ đối tượng khác, Mị ko chỉ giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh tế Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khéo léo và tài hoa quá trình tâm lí phức tạp đó

      Sau cuộc nổi loạn ko thành lần trước, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý thức, bởi vậy, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng ko hề mang bất cứ phản ứng gì. Mị hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó mang tác động vô cùng mạnh tới ý thức Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị đánh, cũng từng khóc tương tự. Trong cô khởi đầu xuất hiện sự cảm thương với người xung quanh: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta tới chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói tới chết người phụ nữ ngày trước cũng ở dòng nhà này”. Đồng thời Mị thoát ra khỏi tình trạng mơ hồ, nhận thức rõ quân thù của mình: “Chúng nó thật độc ác”. Đây là bước trước tiên nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng.

      Mị nhớ về hoàn cảnh mình, so sánh tình cảnh của bản thân với A Phủ, “Ta là thân phụ nữ, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, mạnh mẽ của mình, Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, bột phát xong lại rất logic, hợp lí, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người. Sau cuộc nổi loạn lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị thực hiện cuộc nổi loạn lần thứ hai – ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị ko chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình đang trói buộc, giam cầm một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn cắt đứt sợi dây vô cùng trong tư tưởng, ý thức đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói buộc Mị trong một khoảng thời kì dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy khát vọng hạnh phúc, yêu thương thì tới đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

      Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa trung thực, rõ nét diễn biến tâm lí, những cung bậc xúc cảm của Mị trong những quá trình tâm lí khác nhau. Tác phẩm cũng làm sáng lên ý thức nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, cảm thương cho số phận xấu số của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, ước mong của họ. Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi giày xéo lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

      10. Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

      Tô Hoài là một nhà văn to, mang số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, những sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thực đời thường với lối viết giản dị, sắp gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, tới nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc thù là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động to diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.

      Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Rẻ ko khí mùa xuân tới bất thần cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã tác động tới Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã thân thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ sử dụng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bổi hổi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan yếu tới mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại làm lòng người thiết tha bổi hổi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt ý thức sống lại quá khứ tươi đẹp, dòng ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ tới sức sống tiềm tàng trong Mị. Kế bên tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố làm Mị mang sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để ko nhớ tới tương lai mờ mịt, ko mang gì để hi vọng. Hành động uống rượu đó đã nói lên nỗi oan khúc đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái đó bừng tỉnh sức sống.

      Từ những chất xúc tác từ bên ngoài đó cùng bản tính mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh xúc cảm trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bổi hổi. Những xúc cảm nhẹ nhõm đó làm Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng mang thể sống lại một lần nữa. Ngày đó, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng làm bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ đó, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhìn thấy mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ lúc người ta ko biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhìn thấy mình vẫn còn trẻ. Điều đó chẳng khác nào bao ngày qua, Mị ko biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một dòng xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều trước tiên cô muốn làm lúc sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ lúc bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều ko đi chơi xuân, mặc dù những người phụ nữ mang chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, ko còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ mang một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra ko biết là sáng hay tối nữa. Cô khởi đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã khởi đầu mang những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh xúc cảm. Nhưng ngay lúc ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn đó ko người nào khác chính là A Sử - con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ lúc thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người đó đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, ko cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, tương đối rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của người nào kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu đó, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được lợi. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình ko bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.

      Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những xúc cảm hồ tưởng về quá khứ tới hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan yếu. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì ko mang suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, tới cả con trâu, con ngựa mình cũng ko bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.

      Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng tiếng nói giản dị, thông dụng, Tô Hoài nhịn nhường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn dòng xác ko hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm thời cơ để hồi sinh, để bùng cháy.

      11. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị

      Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mệnh, những sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mệnh, những sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động đó. Quá trình vận động từ khổ đau tới hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

      Vợ chồng A Phủ ra đời lúc Tô Hoài cùng đơn vị lính tiến quân phóng thích Tây Bắc, mang điều kiện xúc tiếp và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời kì dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ thế cuộc của một vài vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính trung thực.

      Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm ko xúc cảm, ko ngừng nghỉ từ sáng tới đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời kì, tái tạo lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và mang tài năng. Vì xinh đẹp và mang tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Ko chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn tới nguy cơ mang phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay tức thì Mị đã yêu cầu với cha ko bán mình đi mà cô sẽ siêng năng làm việc để trả nợ dần. Mị tập kết đầy đủ trong mình những yếu tố được lợi một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó thế cuộc cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, thảm kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột tới tận xương tủy, công việc chất chồng làm cô ko mang giờ phút ngơi nghỉ. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống lúc bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt ý thức. Nhưng ko, bản tính là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần mang chất xúc tác, niềm hi vọng đó sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái tạo đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.

      Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn trước tiên của Mị. Với rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, làm cô thực hiện cuộc nổi loạn trước tiên này. Trước hết là ko khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên những triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với ko khí mùa xuân đã phần nào tác động tới tâm lí của Mị. Nhưng ko khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là tương đối men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng ko phải để mừng một năm mới tới mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những đắng cay, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và ý thức mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tiễn, tìm về với quá khứ. Nhưng quan yếu nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo thấp thoáng ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn tới đầu làng làm Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài tới tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan yếu nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

      Sau lúc nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tiễn, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, làm cho Mị bất thần quay vào buồng, nhịn nhường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ tới lúc nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng ko biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tiễn. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà mang nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ ko thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc đó, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo làm sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ ko thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tiễn thành công.

      Sau cuộc nổi loạn ko thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khát khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may quan tâm tới A Phủ, nhưng đêm đó lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ tới cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc tương tự nhưng ko một người nào quan tâm. Giọt nước mắt đó cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta tới chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, lúc Mị đã nhìn thấy sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức quân thù, đây chính là bước trước tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại dòng xấu, dòng ác.

      Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận phụ nữ, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị tới một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế lúc miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ ko đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ đó đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.

      Những hành động bất thần, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để phóng thích cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

      Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người mang số phận xấu số.

      12. Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông

      Lúc đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người đọc rất thông cảm với số phận của cô Mị và hoàn toàn mang thể hiểu được lý do làm Mị buông xuôi, cam chịu, chấp nhận số phận xấu số của mình. Thế nên việc sức sống vẫn tồn tại và bùng cháy trong Mị đã làm người đọc ko khỏi nể sợ và ngưỡng mộ.

      Mị là người con gái mang khát vọng sống, khát vọng tự do, mang lòng tự trọng. Chính vì khát vọng sống tự do và lòng tự trọng đó mà Mị mới mang hành động xin cha ko gả mình đi rồi hành động hái lá ngón định tự vẫn. Tiếc thay cô Mị tự trọng và kiên quyết bao nhiêu thì cũng hiếu thảo và giàu tình yêu thương bấy nhiêu. Vì thương cha nên Mị mới từ bỏ việc chết, vì thương cha nên Mị mới chấp nhận cuộc sống nô lệ nhà Pá Tra. Cũng đã mang một lần khát vọng sống bùng cháy mãnh liệt trong Mị, đó là trong đêm mùa xuân lúc Mị lắng tai tiếng sáo mời gọi bạn đi chơi, lúc Mị uống rất nhiều rượu, lúc Mị hồi ức lại thanh xuân tươi đẹp và tự do của mình. Đó là lần trước tiên khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị sau chuỗi ngày Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Thế nhưng cuối cùng, khát vọng đó vẫn bị A Sử về và dập tắt, đồng thời, A Sử cũng tra tấn Mị và nếu ko mang người chị dâu vào cởi dây trói thì có nhẽ Mị sẽ cứ vậy mà chết.

      Khát vọng sống của Mị bị dập tắt, những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ vậy mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho tới những đêm mùa đông rét mướt đó. Mỗi ngày lúc Mị dậy sớm ra ngồi sưởi lửa, Mị đều hé mắt trông sang và thấy A Phủ bị trói đứng ở đó. Tâm của Mị đã chết, tới sinh mạng của mình còn chẳng quan tâm nữa thì sao Mị lại quan tâm được tới chuyện của người khác chứ. Vong hồn của Mị sớm đã lụi tàn, chết lặng trong gia đình nhà thống lí rồi. Thế nhưng lúc nhìn thấy giọt nước mắt óng ánh trên khóe mắt của A Phủ, Mị lại thầm nghĩ rằng người kia vì sao mà phải chết, rồi Mị nghĩ mình đã là con dâu được người ta cúng trình ma thì mình phải chết ở đây nhưng A Phủ thì vô tội. Mị nhớ lại những lúc chính bản thân mình bị trói đứng đó, nước mắt chảy xuống ko biết mà lau đi được. Bản thân họ: Mị cũng như A Phủ đều là những người vô tội, họ ko làm gì sai trái, cả thanh xuân của họ đã lao động miệt mài, làm việc thật lực cho nhà thống lí. Vậy nhưng Mị vẫn ko được sống là mình, vẫn bị bạo hành cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng Mị thấy oan khúc cho A Phủ. Hơn người nào hết, Mị là người thấu hiểu hoàn cảnh của A Phủ, hiểu được nỗi oan khiên và khổ đau của anh. Mị thấy mình trong anh, và mong muốn giải thoát anh phát sinh và trỗi dậy. Với Mị, có nhẽ hành động giải cứu này cũng giống như việc Mị gửi gắm cả sự tự do và khát vọng sống của mình vào A Phủ, để con người đó mang đi cả khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị.

      Hành động của Mị lúc này là hành động bột phát nhưng cũng chính là hành động xuất phát từ sâu trong tâm tưởng của Mị, tưởng như Mị đã quyết định nó từ rất lâu. Với Mị, việc cắt dây trói cứu A Phủ của cô được quyết định trong khoảnh khắc nhưng đó cũng chính là hành động cùng suy nghĩ trong sâu thẳm tâm hồn Mị vẫn hướng tới. Mị nhìn thấy số phận của Mị qua A Phủ, Mị giải thoát cho A Phủ cũng là gửi gắm ước mơ và kỳ vọng của mình trong cuộc chạy trốn của anh. Thế rồi sau lúc thấy A Phủ quật cường vùng dậy chạy, Mị lại tiếp tục đuổi theo, lúc này bỗng dưng Mị hiểu ra rằng, nếu ở lại đây thì sẽ chết, nếu chạy mà bị bắt thì cũng chết nhưng ít ra điều đó còn cho Mị một thời cơ để sống, vì vậy Mị chạy theo A Phủ. Câu nói của Mị: “A Phủ, cho tôi đi, ở đây thì chết” đã cho thấy tình yêu với cuộc sống, thèm khát sống mãnh liệt của Mị. Suy cho cùng, khát vọng sống và khát vọng tự do trong Mị vẫn cháy mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết, điều đó làm cho Mị ko chỉ cứu được một mà còn tới hai sinh mạng con người, cho bản thân cô cùng A Phủ một thời cơ để tới với cuộc sống mới.

      Trong lần hành động này, Mị cuối cùng cũng đã thành công. Sự thành công đó là nhờ trong tâm hồn Mị, sức sống vẫn còn cháy, nó chỉ cần một tác nhân, một chất xúc tác để bùng phát. Mị hành động vừa hợp lí và mang tình, tưởng chừng là bột phát, nông nổi nhưng lại là những hành động sâu sắc và đầy đúc kết. Cũng nhờ mang điều này mà trị giá nhân đạo của tác phẩm càng được đẩy lên một tầm cao mới nhân văn hơn.

      13. Cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

      Tham khảo tại đây:

      Top Hai bài cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân siêu hay

      14. Phân tích nhân vật Mị trước lúc về làm dâu

      Tô Hoài là một trong những tên tuổi to của văn học hiện đại Việt Nam. Với hơn 70 năm lao động nghệ thuật oogn đã để lại cho đời vô số tác phẩm nghệ thuật mang trị giá to to với nhiều thể loại khác nhau bao gồm truyện ngăn, truyện dài, bút kí, hồi kí... Nhắc tới những tác phẩm của Tô Hoài, chắc hẳn chúng ta ko thể nào quên được tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Trong đó nổi trội lên là nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt, thể hiện khát vọng một cuộc sống tự do cuả người dân miền núi.

      Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây khiếp sợ cho người đọc về một kiếp người héo hon, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị ko hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

      Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Lúc biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”.

      Đó chính là vẻ đẹp về tư cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng mang ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan trái siết chặt lấy thế cuộc Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm thảm kịch, tủi nhục lúc A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt thế cuộc Mị từ đấy.

      Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại dòng sự vô lí đó, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, ko cam chịu, ko chấp nhận dòng sự thực nghiệt ngã đó. Mị cũng đã từng nghĩ tới dòng chết lúc cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị ko đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi xanh hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Loại địa ngục trần gian đó đã giam cầm thế cuộc Mị.

      Tuổi xuân của Mị bị vùi dập tới héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một dòng cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài ko biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành phương tiện lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”.

      Ko chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về ý thức, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng ko nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa ko?

      Nhưng bằng giác quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang tới cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như dòng bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống đó như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong dòng vẻ ngoài lặng câm vô cảm.

      15. Phân tích nhân vật Mị ngắn gọn

      Tô Hoài là cây bút đầy sức thông minh của nền văn học Việt Nam với phong cách viết sắp gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu trị giá nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người lúc bị áp bức, bóc lột. Đặc thù, Tô Hoài đã khắc họa thành người lao động vật Mị mang sức khiếp sợ đối với người đọc.

      Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhõm nhưng đầy ý vị “Người nào ở xa về, mang dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy mang một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô đó cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo lúc gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập tới đau lòng giữa căn nhà rộng to của thống lý và sự lầm lũi, cui cút của người con gái bí hiểm đó.

      Một cô gái chịu sự dày vò về ý thức, nhưng nhịn nhường như lại mang sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.

      Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống Lý đã làm cho thế cuộc cô rơi vào bế tắc và vô vọng như hiện tại. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và thống khổ.

      Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cùng cực, ko khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử ko khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn mang lúc được ngơi nghỉ “con trâu con ngựa làm còn mang lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, phụ nữ con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và ý thức làm cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, vô vọng.

      Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ mang một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ thế cuộc Mị, làm cho thế cuộc một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lý Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều khắc nghiệt, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng ko tiếc thương. Những người nông dân thấp cổ bé họng ko biết kêu than người nào, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.

      Đã mang lúc Mị muốn tìm tới dòng chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ tới cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị nhịn nhường như đã ko còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm tàng sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.

      Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài làm cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó nhịn nhường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người mang chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, ko mang lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc đó Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng mang.

      Nhưng chính hành động này của Mị đã làm cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong tương đối men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tiễn đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đớn đau và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.

      Tuy nhiên mang thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa khôn xiết sắc nét và trung thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm đó đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm đó A Phủ khóc, một dòng nước mắt óng ánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen”. Giọt nước mắt đó đã làm thay đổi thế cuộc Mị về sau.

      Chi tiết Mị cởi trói cho A phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về ý thức. Sự đè nén lâu nay nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã mang thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị ko thể mãi chịu cảnh bị người ta hành tội, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài lúc khắc họa hình tượng nhân vật này.

      “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm mang trị giá nhân văn sâu sắc. Đặc thù hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.

      16. Phân tích nhân vật Mị sau lúc về làm dâu

      Vợ chồng A Phủ chính là một thành tựu tuyệt vời kết tinh từ chuyến đi thực tế Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Được hòa mình vào ko gian sống, phong tục tập quán của người đồng bào vùng núi Tây Bắc đã giúp tạo nên nguồn cảm hứng để tác giả viết Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm đã khắc họa nên một ý thức sống mãnh liệt, ko chịu khuất phục trước những áp bức bất công của tầng lớp thống trị để tìm ra con đường giải thoát cho chính bản thân mình. Điều này đã được tác giả thể hiện rõ nét nhất thông qua nhân vật Mị.

      Trong truyện này, điều gây cho người đọc ấn tượng nhất là hình ảnh của cô gái dù làm bất cứ việc gì,cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi. Đó là tâm lí của một người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống. Sở dĩ Mị mang nét tính cách đó là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử, Mị ko được lấy người mình yêu, mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền tài nhà Thống Lí đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một nhà giàu nhất vùng nhưng thực chất Mị chỉ là một kẻ nô lệ ko hơn ko kém. Điều đó làm Mị thống khổ khóc ròng rã suốt mấy tháng và từng mang ý định ăn lá ngón để kết liễu đời mình. Thế nhưng sống lâu trong dòng khổ, Mị quen rồi. Chính vì thế, Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

      Trong đêm mùa xuân đó,tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban sơ Mị nghe tiếng sáo Mèo quuen thuộc đang thổi, Mị lẩm nhẩm hát theo, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỉ niệm đẹp thời xa xưa. Mị muốn đi chơi nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói Mị vào cột. Thế nhưng sợ dây đó chỉ trói được thể xác Mị thôi chứ ko trói được tâm hồn Mị.

      Sau đêm mùa xuân đó, Mị lại tiếp tục sống thế cuộc trâu ngựa, thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: dòng khổ, dòng nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần mang một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro nguội lạnh đó thì đốm lửa đó sẽ bùng cháy. Và cuối cùng luồng gió đó cũng tới. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra ngoài bếp lửa thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay²dù A Phủ là dòng xác chết đứng đó cũng thế thôi. Vì sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc đó? Bởi Mị sống lâu trong dòng khổ, Mị quen khổ rồi nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước sự thống khổ của người khác. Một đêm nữa lại tới bên bếp lửa hơ tay, lửa cháy sáng, Mị lén mặt nhìn, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt óng ánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Chính dòng nước mắt đó đã làm tan chảy lớp băng giá trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bổi hổi trước một người cùng tình cảnh. Đêm mùa xuân trước, Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, mang nhiều lần khóc, nước mắt lăn xuống cổ ko lau đi được. Nhớ tới những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị thống khổ đắng cay cho thân phận của mình, nghĩ về mình,Mị lại nghĩ tới A Phủ mang chừng này, chỉ đêm nay là người kia chết, chết đau, chết rét, chết đói, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ tới cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên dòng cột tưởng tượng này. Thế nhưng, Mị vẫn ko thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là mang hạ tầng. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, tài hoa siêng năng, hiếu thảo, thiết tha với tình yêu thành một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác lúc trói một người phụ nữ ngày trước tới chết thì có lẽ nào chúng lại ko đối xử với Mị như thế ư? Chứng kiến dòng nước mắt óng ánh của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng tình cảnh, lí trí giúp Mị nhìn thấy bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác. Những nết tâm lí đó xúc tiến Mị tới với hành động ;sử dụng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo tợn và hết sức nguy hiểm nhưng nó thích hợp với né
      t tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

      Sau lúc cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng ko ngờ mình dám làm một chuyện động trời tới vậy. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Lòng Mị rối bời với hàng trăm nghi vấn; Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thân quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao năm qua. Mị nói với A Phủ: A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất. Đó là lời nói thèm khát sống và tự do của Mị. Câu nói đó chứa đựng biết bao tình cảm. Đó chính là nguyên nhân hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc thế cuộc mình. Thế là Mị với A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn, tủi nhục thì chồng chất ko sao kể hết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài tới Phiềng Sa.

      Với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã thành công về phong cách nghệ thuật, màu sắc dân tộc đượm đà, chất thơ, chất trữ tình thấm đượm, tiếng nói lời văn giàu chất tạo hình.Tô Hoài đã ca tụng những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung.Ông đã rất thông cảm và xót thương cho số phận hẩm hiu, ko lối thoát của Mị. Bằng một trái tim nhạy cảm và chứa chan yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn thuở: ở đâu mang áp bức bất công thì ở đó mang sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát nư Mị. Quả tình tác phẩm giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

      Mời những bạn tham khảo thêm những thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

      Article post on: nongdanmo.com

      Recommended For You

      About the Author: Bảo