
Hôm nay, Download.vn muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích.
Tài liệu bao gồm những mẫu dàn ý và 75 bài văn mẫu lớp 6, nhằm giúp học trò biết cách kể lại một truyền thuyết hay cổ tích.
Kể lại một truyền thuyết - Sự tích Hồ Gươm
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để thịt giặc.
Hồi đấy, ở Thanh Hóa, sở hữu một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Tới lúc kéo lưới lên thấy nằng nặng, nghĩ rằng sẽ kéo được mẻ cá to. Nhưng lúc thò tay vào bắt cá thì chỉ thấy một thanh sắt. Chàng vứt xuống sông, rồi lại thả lưới ở chỗ khác. Kì lạ thay, liên tục ba lần đều vớt được thanh sắt nọ. Thận liền đưa thanh sắt lại mồi lửa thì phát hiện ra đó là một thanh gươm.
Về sau, Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Một lần nọ, chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng tới thăm nhà Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến tới sắp xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Song lại ko người nào nghĩ đó là lưỡi gươm thần.
Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và những tướng rút mỗi người một ngả. Lúc đi ngang qua một khu rừng, Lê Lợi thấy sở hữu ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một mẫu chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ tới lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.
Một năm trôi qua, nhờ sở hữu gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh tới đâu thắng tới đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy Rùa Vàng nổi lên đòi lại thanh gươm thần:
- Việc to đã thành. Xin thánh thượng trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Sau lúc nghe Rùa Vàng nói, Lê Lợi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Kể lại truyền thuyết - Con Rồng cháu Tiên
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ.
2. Thân bài
- Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương và trở thành vợ chồng.
- Âu Cơ sở hữu mang, sinh ra một mẫu bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con.
- Lạc Long Quân từ biệt Âu Cơ, đưa năm mươi con trở về biển.
- Âu Cơ đưa năm mươi con lên rừng. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương.
3. Kết bài
Phân tích về truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên.
Bài mẫu tham khảo
Ngày xưa, sở hữu một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thần sở hữu sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, sở hữu nàng Âu Cơ thuộc dòng tộc Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng tới thăm vùng đất Lạc Việt sở hữu nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.
Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một mẫu bọc trăn trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều lý tưởng, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ phủ.
Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến cho nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than vãn:
- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, ko cùng thiếp nuôi đàn trẻ thơ?
Lạc Long Quân nói:
- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được trong khoảng thời gian dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản những phương. Lúc sở hữu việc gì cần viện trợ lẫn nhau, đừng quên lời hứa hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con mẫu.
Âu Cơ ưng thuận. Trước lúc đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:
- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.
Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:
- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta ko hề phai nhạt, lúc nào cần chúng ta lại gặp nhau.
Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:
- Thiếp rất nhớ chàng và thương những con, biết tới lúc nào chúng ta mới gặp nhau.
Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, yên ủi:
- Xa nàng và những con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và thông cảm cùng ta.
Âu Cơ và những con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.
Lạc Long Quân và những con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa những con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.
Kể lại truyền thuyết - Sơn Tinh, Thủy Tinh
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh.
2. Thân bài
- Vua Hùng Vương sở hữu con gái tên Mị Nương.
- Vua kén rể cho con gái.
- Sơn Tinh, Thủy Tinh tới tranh tài.
- Sơn Tinh tới trước lấy được Mị Nương.
- Thủy Tinh đánh Sơn Tinh.
3. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện: Hiện tượng lũ lụt.
Bài mẫu tham khảo
Hùng Vương thứ mười tám sở hữu một người con gái tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua rất mực yêu thương nên muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng.
Nghe tin nhà vua muốn kén rể, sở hữu hai chàng trai tới cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên sở hữu tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng ko hề thua kém: gọi gió gió tới, hô mưa mưa về. Tên của chàng là Thủy Tinh.
Cả hai người đều vô cùng xuất chúng nên vua Hùng ko biết chọn người nào. Vua bèn ra lệnh:
- Hai người đều vừa ý ta cả. Vậy nên nếu ngày mai người nào mang được sính nghi tới trước sẽ được rước dâu về. Sính nghi gồm sở hữu một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín lông hồng, mỗi thứ một vài.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật tới trước, lấy được Mị Nương. Thủy Tinh tới sau ko lấy được vợ liền nổi nóng, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung rinh cả đất trời. Nước ngập khắp những đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lều bều trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.
Hai bên đánh nhau ròng rã rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Từ đó càng thêm oán nặng thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều thua trận.
Kể lại truyền thuyết - Thánh Gióng
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Thánh Gióng.
2. Thân bài
- Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
- Giặc Ân tới xâm phạm lãnh thổ nước ta.
- Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ thần tìm người tài giỏi cứu nước.
- Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
- Chú bé vùng dậy, vươn vai một mẫu bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
- Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre bên đường đánh tan quân giặc.
- Thánh Gióng bay về trời.
3. Kết bài
Truyền thuyết thể hiện ý thức kết đoàn chống giặc cứu nước.
Bài mẫu tham khảo
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia sở hữu hai vợ chồng ông lão, siêng năng làm ăn lại sở hữu tiếng là phúc đức. Nhưng tới lúc sắp già mà vẫn chứa sở hữu lấy một mụn con.
Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng ko ngờ, khác với người thường, tới mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi tuấn tú. Cậu bé ra đời là niềm ước mơ cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.
Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược lãnh thổ nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến cho quần chúng. # vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi tới đâu sứ thần cũng rao:
- Người nào sở hữu tài, sở hữu sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn đựng tiếng:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ thần vào đây cho con.
- Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ thần vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ thần về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.
Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ thần, cậu cứ to nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng ko no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà ko đủ bèn nhờ láng giềng cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng người nào cũng mong cậu đi thịt giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.
Giặc đã tới sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ thần mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị tới nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả nghìn người cùng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến cho lũ giặc kinh hồn hết hồn hết vía. Đang đánh nhau khốc liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị xoá sổ ko sót một tên.
Dẹp giặc xong, cậu Gióng ko quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa tới núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, lúc ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng đấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ tiếp nối nhau.
Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã ko chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.
Kể lại truyền thuyết - Bánh chưng, bánh giầy
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
Giới thiệu về thời kì, ko gian của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy: Đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã sở hữu tuổi nên muốn truyền ngôi cho con.
II. Thân bài
1. Điều kiện truyền ngôi của Vua Hùng
- Hoàn cảnh: Hùng Vương lúc về nhà, muốn truyền ngôi nhưng lại sở hữu tới hai mươi người con trai, ko biết chọn người nào cho xứng đáng
- Điều kiện: “Người nối ngôi ta phải nối được trí ta, ko nhất thiết phải là con trưởng.”
- Hình thức: Nhân lễ Tiên vương, người nào làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, sở hữu Tiên vương chứng giám.
2. Lang Liêu và những hoàng tử thi nhau tìm kiếm lễ vật dâng nhà vua
- Những lang đua nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon đem về lễ Tiên vương.
- Lang Liêu là con thứ mười tám; mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết. So với anh em, chàng thiệt thòi nhất.
- Lang Liêu nằm mơ, được thần méc bảo hãy tiêu dùng thứ gạo nếp thân thuộc làm thành lễ vật dâng vua cha.
- Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Cũng thứ gạo nếp đấy đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.
- Tới ngày lễ Tiên vương, những lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới, chẳng thiếu thứ gì.
- Nhà vua xem qua một lượt rồi ngừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại.
3. Ý nghĩa và phong tục làm bánh chưng bánh giầy
- Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, được đặt tên là bánh giầy.
- Bánh hình vuông tượng trưng cho đất nên được đặt tên là bánh chưng
- Lá bọc bên ngoài ngụ ý đùm bọc lẫn nhau giống với truyền thống thương người như thể thương thân của dân tộc ta.
- Tục lệ của dân tộc ta: Hàng năm, mỗi lúc Tết tới, bánh chưng bánh giầy là món ăn ko thể thiếu.
III. Kết bài
Ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
Bài mẫu tham khảo
Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong số những người con trai nên đã đưa ra điều kiện:
- Ko nhất định phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa ý vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi cho.
Những hoàng tử cho người đi tới khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ để đem về dâng lên vua cha.
Lang Liêu là con vua, nhưng lại sống giản dị quen với việc chăm lo đồng áng, trồng lúa trồng khoai. Mẹ của Lang Liêu trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, sau đó mất đi để lại một mình chàng. So với những anh em, chỉ sở hữu Lang Liêu là thiệt thòi nhất. Chàng ko biết lấy gì để dâng lên Tiên vương.
Một đêm nọ, Lang Liêu nằm mơ và được thần méc bảo rằng:
- Trong trời đất ko sở hữu gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Hãy lấy gạo mà làm bánh lễ Tiên vương.
Lúc tỉnh dậy biết mình được thần báo mộng. Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Và cũng thứ gạo nếp đấy, chàng đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông tượng trưng cho Trời đặt tên là bánh chưng, còn bánh hình tròn tượng trưng cho Đất đặt tên là bánh giầy.
Tới ngày hứa hẹn, những hoàng tử dâng lên biết bao của ngon vật lạ. Tới lượt Lang Liêu, chàng đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Kể từ đó, hằng năm, cứ mỗi lúc Tết tới, bánh chưng bánh giầy là món ăn ko thể thiếu.
Kể lại truyện cổ tích - Thạch Sanh
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu truyện cổ tích Thạch Sanh.
2. Thân bài
- Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
- Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.
- Thạch Sanh thịt chết chằn tinh, Lý Thông cướp công.
- Thạch Sanh tiêu dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
- Lúc nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Vua tìm ra sự thực, kết tội Lý Thông.
- Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu tới cầu hôn ko được, kéo sang đánh …
3. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện của truyện: “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.
Bài văn mẫu số 1
Ngày xửa ngày xưa, ở quận Cao Bình sở hữu hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa sở hữu một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.
Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời kì sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ sở hữu lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Tới lúc trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.
Thấy Thạch Sanh sở hữu sức khỏe, Lí Thông mới mon men gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng sở hữu một con chằn tinh hung hãn, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm đấy tới lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:
- Đêm nay tới lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu thương chịu khó đi thay cho anh một đêm, tới sáng lại về.
Thạch Sanh chẳng sở hữu chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm đấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên sở hữu một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Ko lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau lúc nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:
- Đó là con vật nuôi của vua, thịt nó là mang tội. Thôi ngày nay nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
Thạch Sanh ko mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân thời cơ đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.
Lại nói lúc đó, công chúa đã tới tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền tiêu dùng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Tới hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá to lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi tới cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh tiêu dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước lúc trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.
Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần c ông chúa sau lúc cứu thoát, trở về cũng thì bỗng ko nói, ko cười. Ngự y trong triều đều phải khoanh tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để thổ lộ nỗi oan khúc. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh tới gặp, chàng kể hết mọi oan khúc. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử những nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa đựng lên đã khiến cho quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi ko hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua ko sở hữu con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
Bài văn mẫu số 2
Xưa, ở quận Cao Bình sở hữu hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa sở hữu một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.
Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời kì sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ sở hữu lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Tới lúc trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.
Thấy Thạch Sanh sở hữu sức khỏe, Lí Thông mới mon men gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng sở hữu một con chằn tinh hung hãn, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm đấy tới lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:
- Đêm nay tới lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu thương chịu khó đi thay cho anh một đêm, tới sáng lại về.
Thạch Sanh chẳng sở hữu chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm đấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên sở hữu một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Ko lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau lúc nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:
- Đó là con vật nuôi của vua, thịt nó là mang tội. Thôi ngày nay nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
Thạch Sanh ko mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân thời cơ đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.
Lại nói lúc đó, công chúa đã tới tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền tiêu dùng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Tới hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá to lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi tới cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh tiêu dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước lúc trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.
Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần công chúa sau lúc cứu thoát, trở về cũng thì bỗng ko nói, ko cười. Ngự y trong triều đều phải khoanh tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để thổ lộ nỗi oan khúc. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh tới gặp, chàng kể hết mọi oan khúc. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử những nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa đựng lên đã khiến cho quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi ko hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua ko sở hữu con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
Kể lại truyện cổ tích - Sọ Dừa
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kì lạ của mẹ Sọ Dừa.
2. Thân bài
- Hình thù kì dị của Sọ Dừa.
- Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
- Cô út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
- Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
- Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út.
- Sọ Dừa đi thi.
- Cô út bị hai cô chị hãm hại.
3. Kết bài
Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, sở hữu hai vợ chồng nông dân hiền lành, siêng năng nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa sở hữu con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá ko tìm thấy suối. Bà nhìn thấy mẫu sọ dừa kế bên gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì sở hữu mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé ko chân ko tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé đựng tiếng nói:
- Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà lão giữ lại nuôi. S au lúc to lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông sở hữu ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ sở hữu cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ tới phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe sở hữu tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa ko phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, sở hữu thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ tới hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành tới nhà phú ông hỏi cưới. Phù ông nghe bà lão nói thì cười to rồi nói:
- Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Tới ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, ko người nào thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đứng bên cô út. Người nào nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành siêng năng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời kì đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt trộng vào bụng. Sẵn sở hữu con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ sở hữu những vật dụng mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.
Một hôm, sở hữu chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng ko cho người nào biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ tiếc thương lắm. Quan trạng ko nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ, sở hữu hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ siêng năng, tốt bụng nhưng ngoài năm mươi rồi vẫn chưa sở hữu con.
Một lần nọ, người vợ vào rừng lấy củi cho nhà chủ, trời nắng mà khát nước quá, ko tìm thấy suối. Bà nhìn thấy mẫu sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, liền bưng lên uống. Về nhà thì sở hữu mang.
Ít lâu sau, người chống mất. Bà sinh ra một đứa bé ko chân, ko tay, cứ tròn như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Thương con, bà để lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa.
Tới lúc to lên, Sọ Dừa chẳng khác lúc nhỏ là bao, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì.
Một hôm, bà mẹ than phiền:
- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.
Nghe vậy, Sọ Dừa liền nói:
- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói vậy, bà tới thưa chuyện. Phú ông tỏ ra ngần ngại lắm, chẳng biết Sọ Dừa sở hữu chăn nổi bò. Nhưng nghĩ tới việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông liền đồng ý.
Sọ Dừa tới ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con nấy đều no căng béo tốt. Phú ông mừng lắm. Tới ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba cô con gái của phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Nhưng hai cô chị luôn tỏ ra cay nghiệt, chỉ sở hữu cô út là đối xử tử tế.
Một hôm, cô út mang cơm, tới chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo. Cô thấy lạ, liền rón rén bước lại sắp thì thấy một chàng trai tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Lúc nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Cứ nhiều lần tương tự, cô út biết Sọ Dừa ko phải người trần, đem lòng yêu mến.
Hết mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ tới hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ ngạc nhiên lắm, nhưng thấy con năn nỉ nên đành ưng ý. Bà chuẩn bị sính nghi, rồi tới nhà phú ông thưa chuyện. Nghe xong, phú ông tỏ ra khinh bỉ.
- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà mẹ buồn bã trở về nói với Sọ Dừa, cứ nghĩ con sẽ từ bỏ hẳn việc lấy vợ. Ko ngờ, chàng lại bảo mẹ sẽ chuẩn bị đầy đủ những thứ đó. Đúng ngày hứa hẹn, bà mẹ ngạc nhiên lúc thấy trong nhà sở hữu bao nhiêu là sính nghi, ko thiếu thứ gì. Lại còn cả chục mĩ nhân chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế là phú ông phải nói với bà:
- Để ta hỏi xem sở hữu đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa ko đã!
Lão gọi ba cô con gái ra, hai cô chị bĩu môi khinh thường, còn cô út thì đồng ý. Vậy là phú ông đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.
Ngày cưới diễn ra, nhà Sọ Dừa bày cỗ linh đình. Lúc rước dâu, ko người nào thấy Sọ Dừa đâu cả. Bỗng một chàng trai tuấn tú tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều mừng rỡ, chỉ sở hữu hai cô chị là ghen tức lắm.
Vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Ngày ngày, Sọ Dừa đều siêng năng đèn sách. Chẳng bao lâu, chàng đã đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước lúc chia tay, quan trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng lúc tiêu dùng tới.
Hai cô chị vốn đem lòng ghen ghét, nay thấy quan trạng đi vắng, liền bày mưu hãm hại em gái. Họ sang nhà, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình nuốt cô em vào bụng. Nhưng sẵn sở hữu con dao, cô em đâm chết cá, xác cá nổi lều bều trên mặt biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô khoét bụng cá để ra ngoài, lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau, bật lửa lên, rồi xẻo thịt cá nướng ăn, sống qua ngày. Hai quả trứng nở thành đôi gà, làm bạn với cô.
Một hôm sở hữu chiếc thuyền ngang qua. Con gà trống nhìn thấy, gáy to ba lần:
- Ó… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau mừng lắm, trở về nhà cho mở tiệc linh đình. Nhưng quan trạng lại giấu vợ đi.
Hai cô chị ko biết gì, mừng thầm vì sắp được thay cô em làm bà trạng. Họ thay nhau kể chuyện em gái gặp nạn, khóc lóc tiếc thương. Tới lúc tiệc xong, quan trạng cho gọi vợ ra. Hai người chị xấu hổ trốn đi biệt tích.
Kể lại truyện cổ tích - Em bé thông minh
Ngày xưa, sở hữu ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi tới một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền tới gấn.
Viên quan hỏi cha tôi: “Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”
Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi nhưng nghe ông quan hỏi thề thì hỏi vặn lại quan rằng: “Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường”
Viên quan há hốc mồm sửng sốt ko biết trả lời ra sao. Viên quan mừng thầm, nghĩ người ta đây rồi. Ông hỏi hai cha con họ tên tuổi, làng xã quê quán rồi phi ngựa đi thẳng.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu đấy đẻ thành chín con, hứa hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu ko thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, em bé xin cha tôi thưa với dân làng thịt thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng mồm. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh suy tính việc của làng.
Làng ngờ vực bắt cha con họ viết giấy đoan mới đám ngả trâu đánh chén. Mấy hôm sau thì cả hai cha con lên đường vào kinh. Tới hoàng cung, cậu bé bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhè lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu cậu vào, phán hỏi: “Thằng bé kia, mày sở hữu việc gì? Sao lại tới đây mà khóc?”.
Lúc đó, em bé vờ vĩnh đáp: “Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con ko chịu đẻ em bé để chơi với con cho sở hữu bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ”.
Nghe cậu bé nói thế, vua và những triều thần đều bật cười. Vua lại phán: “Mày muốn sở hữu em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!”
Lúc đó, với vẻ mặt tươi tĩnh, cậu bé thưa với vua: “Thế sao làng chúng con lại sở hữu lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”
Lúc đó, vua cười và bảo: “Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày ko biết đem trâu đấy ra thịt mà ăn với nhau à?”
Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.
Một hôm, lúc hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng sở hữu sứ thần nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu liền nhờ cha tôi lấy một cây kim và tôi đưa cho sứ thần mẫu kim đó rồi nói: “Ông cầm mẫu kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim”. Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu.
Hồi đó, sở hữu một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta sở hữu nhân tài hay ko, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một mẫu vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Những đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người tiêu dùng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời kì tìm người giải câu đố.
Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì sở hữu chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói ngọn nguồn câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...”
Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời tôi nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách thuận lợi. Nghe nói, sứ thần nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.
Kể lại truyện cổ tích - Cây khế
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ sở hữu hai anh em. Cha mẹ mất sớm, anh em rất mực yêu thương nhau, cùng nhau làm lụng nên cũng sở hữu của ăn, của để. Nhưng từ lúc sở hữu vợ, người anh đâm ra lười biếng.
Một hôm, người anh gọi em trai tới để phân chia gia sản. Người anh nhận hết của nả, chỉ để lại cho em một túp lều tranh, trước lều sở hữu một cây khế. Quanh năm, vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế tươi tốt. Tới mùa khế ra rất nhiều quả. Người em bàn với vợ sẽ hái khế để đem ra chợ bán. Hôm đó, lúc người em vừa định trèo lên cây thì đã nhìn thấy trên cây khế sở hữu một con chim rất to đang đậu trên cây và đang ăn khế. Suốt một tháng, chim đều tới ăn. Người vợ xót ruột liền tới nói với chim:
- Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?
Chim bỗng ngừng ăn và đựng tiếng trả lời:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng.
Nói rồi chim bay đi. Vợ chồng bàn nhau làm theo lời chim nói. Sáng hôm sau, chim tới thật và đưa người em tới một hòn đảo giữa biển. Chim đáp xuống một cửa hang. Bên trong sở hữu rất nhiều vàng bạc châu báu. Thấy hang sâu và tối, người em chỉ dám nhặt ít châu báu ở ngoài, rồi ra hiệu cho chim ra về.
Từ đó, cuộc sống của gia đình của người em trở nên sung túc. Họ cho dựng một căn nhà khang trang sắp túp lều và cây khế và viện trợ người dân nghèo khổ. Tiếng lành đồn xa, chuyện tới tai người anh. Một sáng, người anh tới nhà em trai từ sớm. Anh ta liền mon men hỏi chuyện, rồi gạ để đổi lấy túp lều và cây khế.
Cả gia đình người anh chuyển tới túp lều tranh của em trai. Ngày nào, vợ chồng người anh cũng chỉ ăn rồi ra dưới gốc khế chờ chim thần tới. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, cả hai đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết. Chim thần cũng nói y như lời kể của người em. Người anh bảo vợ may hẳn chiếc túi gấp ba lần, thành ra như một mẫu tay nải to.
Sáng hôm sau, chim thần tới đưa người anh ra tới đảo. Anh ta hoa mắt lúc thấy nhiều vàng bạc châu báu. Vào trong hang, người anh lại càng mê mẩn, cố sức nhét thật đầy.
Người anh leo lên lưng chim, chim là đà mãi mới đựng cánh được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Mang nặng, bay ngược gió, chim yếu dần, hai cánh rũ xuống. Tai nải bật mạnh vào cánh chim. Chim buông xuôi rồi đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn đi. Còn chim chỉ bị ướt lông ướt cánh, lại vùng lên bay về núi rừng.