
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, nền văn học cựu truyền đã để lại những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích về những nhân vật lịch sử sở hữu thật hoặc hư cấu, nhờ đó nói lên ý thức yêu nước, vượt bậc nét văn hóa mặn mòi bản sắc dân tộc. Hãy cùng chúng tôi thuật lại một số câu chuyện như: Sọ Sừa, Thạch Sanh, Cậu bé thông minh,...qua lời kể của bản thân.
Kể lại một truyền thuyết hoặc cổ tích - Sọ Dừa
Trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam, thì Sọ Dừa là một trong những câu chuyện hay và ấn tượng nhất mà em được biết.
Câu chuyện kể về thế cục với nhiều điều kì lạ của Sọ Dừa. Mẹ chàng nhờ uống nước trong một loại sọ dừa mà mang thai rồi sinh ra chàng. Lúc mới sinh ra, chàng sở hữu hình dáng kì lạ, mình tròn lông lốc như trái dừa, nên mới được mẹ đặt tên cho là Sọ Dừa.
Tuy thiết kế kì lạ, nhưng Sọ Dừa rất yêu thương mẹ và ngoan ngoãn. Chàng chủ động xin được đi chăn bò cho phú ông để đỡ đần cho mẹ. Nhờ tài thổi sáo, chàng ko chỉ chăn đàn bò ko mất con nào, mà còn làm cho chúng béo tốt, mũm mĩm. Trong quá trình đó, cô út hiền lành đã phải lòng chàng sau nhiều lần đi đưa cơm.
Thế là, Sọ Dừa nhờ mẹ sang nhà phú ông hỏi vợ cho mình. Điều bất thần, là chàng đã chuẩn bị đầy đủ những sính nghi mà phú ông yêu cầu, để cưới được con gái ông ta. Tới ngày, điều ngạc nhiên hơn nữa đã xảy ra, lúc Sọ Dừa tổ chức đám tiệc linh đình, với kẻ hầu người hạ tấp nập. Còn chàng thì trở về lốt người, tuấn tú tuấn tú.
Sau lúc kết hôn, Sọ Dừa siêng năng dùi mài kinh sử và thi đỗ trạng nguyên. Ít lâu sau, chàng còn vinh dự được nhà vua tin tưởng, cử đi sứ. Điều này làm cho cho hai cô chị của vợ chàng ghen ăn tức ở, quyết hãm hại em. Hai ả ta mời cô em gái đi chơi thuyền, rồi đẩy em xuống sông, nhằm cướp chồng. Nhưng may thay, nhờ những thiết bị mà Sọ Dừa trước lúc đi dặn luôn mang theo, mà cô út sống sót trên hoang đảo. Rồi một ngày, tàu của quan trạng đi qua, gặp được vợ và đón về nhà.
Cuối cùng, người tốt như Sọ Dừa và cô út được sống hạnh phúc bên nhau. Còn kẻ xấu xa, nham hiểm như hai cô chị, thì phải bỏ đi biệt xứ. Đó cũng chính là ước mơ của nhân dân ta ngày xưa, về một xã hội công bằng, hạnh phúc.
Kể lại một truyện đã biết truyền thuyết cổ tích bằng lời văn của em - Thạch Sanh
Trong những câu chuyện cổ tích mà em đã từng được đọc, thì câu chuyện em thích nhất chính là truyện cổ tích Thạch Sanh.
Câu chuyện kể về thế cục của Thạch Sanh - một chàng trai dũng cảm, tốt bụng và tài năng. Chàng vốn là thái tử ở trên thiên tào, được Ngọc Hoàng phái xuống làm con của hai vợ chồng già tốt bụng. Cha chàng qua đời trước lúc chàng được sinh ra. Mấy năm sau, mẹ chàng cũng qua đời. Để lại Thạch Sanh sống cánh tứ cố vô thân, thui thủi trong một túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của chàng là một lưỡi búa của cha để lại. Năm chàng biết sử dụng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho chàng đủ những môn võ nghệ và mọi phép thần thông.
Thạch Sanh là người luôn khát khao mái ấm gia đình. Vì vậy, chàng đã bị Lý Thông lường gạt, tới sống chung và làm lụng trợ giúp mẹ con nhà hắn. Sau này, chàng còn bị Lý Thông lừa tới miếu thờ nộp mạng cho chằn tinh thay hắn. May mắn nhờ sở hữu võ nghệ và phép thần thông, Thạch Sanh đã giết mổ chết và chặt đầu chằn tinh mang về. Lần này, chàng lại bị Lý Thông lường gạt cướp công giết mổ chằn tinh, còn bản thân thì lại trở về thui thủi một mình dưới gốc đa.
Sau này, trong một lần tình cờ, chàng nhìn con đại bàng tinh đang bắt một cô gái bay ngang qua. Thế là Thạch Sanh liền bắn bị thương cánh của đại bàng, rồi lần theo vết máu mà đuổi tới hang của đại bàng, nhằm tìm cách cứu cô gái. Tuy biết được sào huyệt của đại bàng, nhưng Thạch Sanh vẫn chưa tìm ra cách cứu cô gái vì loại hang quá sâu, một mình chàng thì ko đưa cô gái lên được. Đúng lúc đó, chàng gặp lại Lý Thông, một lần nữa hắn lại tìm cách lừa chàng. Thì ra, cô gái đó chính là công chúa, và nhà vua đã ra lệnh rằng, nếu người nào cứu được công chúa sẽ được cưới nàng và nối ngôi vua. Thạch Sanh ko chút nghi ngờ, ngay thức thì dẫn Lý Thông và quân lính tới hang đại bàng. Chàng chủ động nhảy xuống đưa công chúa lên trước. Tới lượt chàng, Lý Thông sai quân lính lấp cửa hang lại. Tới lúc này chàng mới nhìn thấy gương mặt độc ác, xảo trá của hắn.
Cửa hang bị lấp lại, Thạch Sanh cố tìm cách ra ngoài bằng một lối đi khác. Trong quá trình đó, chàng họp mặt và cứu thoát con trai vua Thủy Tề khỏi cũi sắt. Sau đó, chàng được mời xuống thủy cung và được vua thủy tề tạ ơn hậu hĩnh. Thế nhưng với tính cách thực thà, chàng chỉ xin nhận một cây đàn rồi lại trở về túp lều cũ dưới gốc đa.
Trở về nhà, chàng lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Ngày ngày, sau lúc làm việc mỏi mệt thì chàng lại lấy cây đàn ra để giải khuây. Tiếng đàn của chàng vọng tới cung công chúa, làm cho nàng bật cười vui vẻ. Thì ra từ lúc được cứu ra khỏi hang đại bàng, công chúa lúc nào cũng ủ rũ, buồn bã. Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch Sanh vào cung để truy hỏi cho rõ ràng. Tới nơi, Thạch Sanh kể rõ sự tình cho mọi người. Tới đây, sự thực được phơi bày. Mẹ con Lý Thông bị đem ra xử phạt, còn Thạch Sanh trở thành phò mã. Thế nhưng với lòng thương người, chàng đã tha cho mẹ con Lý Thông và để họ về quê. Nhưng trên phố về họ bị sét đánh trúng và biến thành bọ hung.
Sau lúc đám cưới của Thạch Sanh và công chúa diễn ra thì hoàng tử những nước chư hầu đem quân sang tiến công nước ta vì ghen ghét. Thạch Sanh đã xin nhà vua cho mình được ứng chiến. Tới nơi, chàng sử dụng tiếng đàn để làm quân địch bủn rủn thủ công, ko suy nghĩ gì về việc đương đầu. Sau đó, chàng sử dụng niêu cơm thần ăn mãi ko hết làm cho cho quân lính những nước chịu thua. Vì ko người nào sở hữu thể ăn hết cơm được. Do đó, quân của những nước chư hầu buộc phải rút về. Sau này, Thạch Sanh nối ngôi vua, trở thành một vị hoàng đế.
Câu chuyện vô cùng hay và quyến rũ em ko chỉ vì nó sở hữu nhiều chi tiết kì ảo thú vị. mà còn bởi vì trong nó, chứa đựng những ước mơ, niềm tin của nhân dân về loại thiện, loại chính sẽ luôn thắng loại ác, loại tà. Đây là một tư tưởng vô cùng tốt đẹp, cần được giữ gìn và phát huy.
Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết cổ tích) bằng lời văn của em - Cây tre trăm đốt
Ở trước nhà em sở hữu trồng rất nhiều cây tre. Mỗi lúc rảnh rồi, em thường ngồi đếm những đốt của cây tre. Mang lần em hỏi ông: “Ông ơi, sở hữu cây tre nào sở hữu một tẳm đốt ko ạ?”. Nghe vậy ông bật cười: “Muốn sở hữu cât tre trăm đốt thì phải sở hữu thần chú cơ.” Nghe vậy em liền quấn lấy ông đòi biết được câu thần chú. Vậy là ông bảo em ngồi xuống rồi kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.
Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo túng nhưng rất khỏe mạnh, chịu thương chịu khó làm lụng. Anh làm tôi tớ cho một ông lão, và được ông ta hứa là nếu chịu thương chịu khó làm lụng cho nhà lão mà ko lấy tiền thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức làm lụng mà ko lấy dù chỉ một đồng điền công.
Tuy nhiên, lúc tới lúc cô con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả cô cho tên phú hộ trong làng. Vì vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một cây tre trăm đốt về làm đũa cưới thì mới gả con gái cho. Thế là chàng trai hì hục thi tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn ko tìm được cây tre trăm đốt nào cả. Quá mỏi mệt và vô vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi. Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy cho anh hai câu thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để những đốt tre tự rời nhau ra để tiện di chuyển.
Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về tới nơi, chàng thấy trên sân là đám cỗ linh đình thì nhìn thấy là mình bị lừa. Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem cây tre trăm đốt. Lúc lão ta vừa lại sắp, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập” làm cho lão bị dính luôn vào cây tre, trở thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn ko gỡ lão ra được. mãi sau, lão đồng ý gả con gái cho chàng đúng như đã hứa. Chàng ko tin ngay, mà bắt lão thề thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.
Từ đó, mọi người người nào cũng nể sợ chàng lắm. Còn chàng thì cưới được cô vợ xinh đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.
Kể lại một câu chuyện truyền thuyết bằng lời văn của em - Em bé thông minh
Sáng nay, lúc ở thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em bé thông minh rất hay và thú vị.
Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, lúc nhà vua rất trọng hiền tài. Ngài đã ra lệnh cho sứ thần đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước. Lúc đi tới một làng nọ, sứ thần đã gặp được một cậu bé - nhân vật chính trong câu chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử thách để chứng minh trí thông minh của mình.
Lần thứ nhất, cậu bé đã đố trái lại sứ thần rằng “Con ngựa của ông một ngày đi được mấy đường?”, để đối lại thắc mắc khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được mấy đường?” của ông. Lần thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Lúc ngài ban cho ba con trâu đực và ba thúng xôi nếp, yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh thành, giả vờ yêu cầu vua bắt cha mình phải sinh em cho. Lúc nhà vua khó xử vì ko thể yêu cầu đàn ông sinh con được, thì cậu hỏi trái lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để sinh ra nghé con. Sự thông minh đấy của cậu làm cho vua phải sửng sốt. Nhưng chưa chắc lắm, vua lại thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu bé là người tài. Ngay sau đó, sứ thần nước láng giềng mang sang một thắc mắc khó, rằng phải xỏ sợi dây qua đường ruột ốc. Cả triều đình đều khoanh tay, mà cậu bé vừa nghe đã giải được, còn hát thành một bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã phong cậu làm trạng nguyên.
Qua câu chuyện, em được biết thêm những câu đố dân gian thú vị. Và hiểu được ý nghĩa, sự quý trọng của người xưa đối với tri thức, kinh nghiệm dân gian.
Kể lại một câu chuyện truyền thuyết hoặc cổ tích - Bánh trưng, bánh giầy
Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống được tất cả người dân yêu mến và mong chờ. Và bánh chưng, bánh giầy là hai món ăn đặc trưng, ko thể thiếu vào ngày Tết. Để giảng giải về ý nghĩa, nguồn gốc của hai loại bánh này, ông cha ta thường kể cho con cháu mình nghe về truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy.
Truyền thuyết lấy bối cảnh vào thời vua Hùng Vương, lúc vị vua đang thống trị đã tới tuổi già yêu, muốn truyền ngôi cho con loại của mình. Theo ông, người làm vua cần phải kế thừa được tài đức, lý tưởng của ông chứ ko nhất thiết phải làm con trưởng. Điều đó gây nên một trận xôn xao trong những hoàng tử. Cuối cùng nhà vua ra chỉ rằng: Vào ngày lễ tiên vương, người nào làm ra được một món ăn vừa ngon, lại ý nghĩa, được lòng tất cả mọi người thì sẽ được nối ngôi. Chiếu chỉ vừa ra, tất cả những hoàng tử đều ra sức tìm kiếm những món ngon quý hiếm, sơn hào hải vị từ khắp nơi. Chỉ mong làm hài lòng vua cha.
Trong lúc đấy, chỉ sở hữu người con trai thứ mười tám của ngài - hoàng tử Lang Liêu là chẳng làm gì cả. Bởi chàng sở hữu cuộc sống rất khó khăn, thiếu thốn. Nhà chàng chỉ sở hữu thóc lúa là nhiều, chứ chẳng sở hữu gì cả. Vậy nên, chàng tự bỏ mình ra khỏi cuộc đua dành ngôi báu. Một hôm trong lúc nằm mơ, chàng được một vị thần báo mộng, chỉ cho cách làm món bánh ngon, giàu ý nghĩa từ gạo nếp. Nghe theo lời dạy của thần, Lang Liêu chọn thứ gạo nếp thơm nức, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, sử dụng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp đấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn. Tới ngày lễ tiên vương, món bánh của Lang Liêu trở thành món bánh vua cha ưng ý nhất. Những cận thần cũng trằm trồ khen ngon. Đã thế món bánh còn rất giàu ý nghĩa, tượng trưng cho sự hòa hợp của đất trời. Vì vậy, thuận lí thành chương, Lang Liêu được vua Hùng chọn trở thành người kế vị. Cũng từ đó, cứ tới dịp Tết, nhân dân ta lại đem gạo nếp ra làm bánh chưng, bánh giầy để đặt lên mâm thờ tổ tiên.
Tục lệ đấy tới hiện giờ vẫn còn được giữ. Bởi món bánh đấy ko chỉ ngon mà còn giàu ý nghĩa nữa. Nếu thiếu đi bánh chưng thì tức thị loại Tết đấy chẳng còn trọn vẹn nữa rồi.
Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên
Kể lại một truyện đã biết truyền thuyết, cổ tích bằng lời văn của em lớp 6 - Con Rồng cháu Tiên
Thuở xưa ở vùng đất Lạc Việt sở hữu vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần hình rồng, sức khỏe phi thường và sở hữu nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ những loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi sở hữu phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng. Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra loại bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con tuấn tú tuấn tú lạ thường. Chẳng cần bú mớm mà đàn con to nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần. Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình ko thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà thở than:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, ko cùng thiếp nuôi những con?! Lạc Long Quân ân cần giảng giải:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi trong tương lai được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản những phương. Kẻ miền núi, người miền biển, lúc sở hữu việc gì khó khăn thì trợ giúp nhau, đừng quên lời hứa hẹn. Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình sở hữu quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám hoánh vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương. Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc tới nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả những dân tộc sống trên quốc gia Việt Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào). Những dân tộc kết đoàn, thương yêu, trợ giúp lẫn nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải về Top 6 bài văn: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích hay nhất file PDF hoàn toàn miễn phí.
--- Cập nhật: 26-02-2023 --- nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Văn mẫu lớp 6: Kể lại một truyện cổ tích Dàn ý & 8 bài văn mẫu lớp 6 từ website download.vn cho từ khoá kể lại một truyện cổ tích.
Truyện cổ tích là một thể loại văn học thân thuộc đối với mỗi người. Nhằm giúp học trò biết cách kể lại một truyện cổ tích, Download.vn muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Kể lại một truyện cổ tích, thuộc sách Chân trời thông minh.
Dưới đây bao gồm dàn ý và 8 bài văn mẫu, mời những bạn học trò lớp 6 sở hữu thêm ý tưởng để hoàn thiện bài viết của mình.
Đề bài: Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích.
Dàn ý kể lại một truyện cổ tích
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện cổ tích được kể: tên truyện, lý do muốn kể chuyện.
2. Thân bài
- Trình bày về những nhân vật, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
- Kể lại những sự việc theo trình tự thời kì:
- Sự việc 1:
- Sự việc 2
- Sự việc 3
- Sự việc 4:
…
3. Kết bài
Nêu cảm tưởng về truyện vừa kể.
Kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa
Bài văn mẫu số 1
Kho tàng truyện cổ tích sở hữu rất nhiều truyện đặc sắc. Một trong những câu chuyện hay, là truyện cổ tích Sọ Dừa.
Ngày xưa, sở hữu hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở cho phú ông. Họ siêng năng, hiền lành mà ngoài năm mươi vẫn chưa sở hữu một mụn con. Một hôm, người vợ vào trong rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một loại sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Về nhà, bà sở hữu mang.
Chẳng bao lâu, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con ko sở hữu chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Vì thương con, bà để con lại nuôi, đặt cho loại tên là Sọ Dừa. To lên, Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Bà mẹ buồn phiền nói với con:
- Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được trò trống gì.
Sọ Dừa nói với mẹ:
- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói, bà đánh liều tới hỏi phú ông. Ban sơ, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.
Từ đó Sọ Dừa tới ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối tới lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị độc óc, thường hắt hủi Sọ Dừa. Chỉ sở hữu cô út hiền lành, đối xử với Sọ Dừa rất tốt.
Một hôm, như thường lệ tới phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe sở hữu tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa ko phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, sở hữu thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ tới hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng.
Mẹ Sọ Dừa tới hỏi, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão ra về, nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định. Nhưng Sọ Dừa lại bảo mẹ yên tâm, mình sẽ sắm đủ lễ vậy. Bà lão nửa tin nửa ngờ. Tới ngày hứa hẹn, bà hết sức ngạc nhiên lúc trong nhà bỗng sở hữu đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Ko chỉ vậy, còn sở hữu chục mĩ nhân khiêng sính nghi sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, nói với bà cụ:
- Để ta hỏi con gái, xem sở hữu đứa nào đồng ý lấy Sọ Dừa ko đã?
Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ sở hữu cô út là cúi đầu tỏ ý hài lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng người nào thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đứng bên cô út. Người nào nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước lúc đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn những thứ đấy bên mình để sở hữu lúc cần sử dụng tới.
Ghen tuông tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết mổ hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May sở hữu con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô sử dụng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua tới cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Một hôm sở hữu chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con tới chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà ko cho người nào biết. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ tiếc thương lắm. Quan trạng ko nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Truyện Sọ Dừa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Qua đó, truyện còn thể hiện tấm lòng nhân ái với những con người hiền lành, tốt bụng và niềm thương cảm với những con người xấu số. Đây chính là câu chuyện mà tôi yêu thích nhất.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, sở hữu hai vợ chồng nông dân hiền lành, siêng năng nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa sở hữu con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá ko tìm thấy suối. Bà nhìn thấy loại sọ dừa kế bên gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì sở hữu mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé ko chân ko tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé chứa tiếng nói:
- Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà lão giữ lại nuôi. S au lúc to lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông sở hữu ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ sở hữu cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ tới phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe sở hữu tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa ko phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, sở hữu thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ tới hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành tới nhà phú ông hỏi cưới. Phù ông nghe bà lão nói thì cười to rồi nói:
- Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Tới ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, ko người nào thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đứng bên cô út. Người nào nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành siêng năng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời kì đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt trộng vào bụng. Sẵn sở hữu con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ sở hữu những thiết bị mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.
Một hôm, sở hữu chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng ko cho người nào biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ tiếc thương lắm. Quan trạng ko nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.
Kể lại một truyện cổ tích - Tấm Cám
Bài văn mẫu số 1
Từ xưa, tôi đã được nghe những câu chuyện cổ tích qua lời kể của bà, của mẹ. Cho tới hiện giờ, tôi vẫn còn yêu thích và nhớ mãi về truyện cổ tích Tấm Cám.
Câu chuyện kể về hai chị em Tấm và Cám. Cha mất sớm, Tấm phải ở cùng với mẹ kế. Mọi việc nặng nhọc từ việc nhà tới việc đồng áng đề do một tay Tấm làm hết.
Một hôm, mẹ kế đưa cho hai chị em mỗi người một loại giỏ và bảo ra đồng bắt con tôm loại tép, hứa rằng:
- Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một loại yếm đỏ.
Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, tới cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám liền nói với Tấm:
- Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin ngay, bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Thừa dịp đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước để nhận chiếc yếm đào. Tấm lên bờ thấy giỏ ko còn cá, sợ về nhà bị mẹ kế đánh liền ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì ko, thì trong giỏ còn một con cá bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá về nuôi, lúc cho ăn thì gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm đấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Cám lại thấy Tấm để dành một phần cơm. Thấy kì lạ, Cám mách nước mẹ. Hai mẹ con rình xem thì phát hiện ra Tấm đang nuôi một con cá bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm được ném xuống. Biết chuyện, mẹ kế gọi Tấm lại rồi bảo chị ta sáng mai dậy sớm đi chăn trâu, và dặn rằng:
- Con ơi con! Làng đã khởi đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm ko chút nghi ngờ, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con Cám liền ra giếng, gọi y hệt lời Tấm. Cá bống hiện lên thật, hai mẹ con Cám liền bắt lấy nó rồi đem giết mổ thịt.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy hôm sớm. Già trẻ trai gái những làng đều nô nức đi xem. Hai mẹ Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mẹ kế liền lấy một thúng gạo và một thúng thóc với nhau, rồi bảo chị:
- Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi sở hữu đi đâu hãy đi, đừng sở hữu bỏ dở, về ko sở hữu gì để thổi cơm dì đánh đó.
Một thời kì sau, nhà vua hạ lệnh cho rao mời tất cả phụ nữ đi xem hội tới ướm thử giày. Và hễ người nào đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Cám cũng đếm thử nhưng ko vừa. Nhìn thấy Tấm từ xa, Cám liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, hình như chị Tấm nhà ta cũng tới thử giày đấy!
Mẹ ghẻ liền bĩu môi, nói:
- Chuông khánh còn chẳng ăn người nào. Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.
Nhưng lúc Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Tấm còn lấy ra một chiếc giày khác giống y hệt. Thế rồi, nàng được vua đón vào cung làm hoàng hậu.
Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn ko quên ngày giỗ cha. Nhân đó, mụ con Cám bày mưu hại Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời mẹ tôi, trèo lên cây. Thấy cây rung rinh liền hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc thế?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, ngã lộn cổ xuống ao và chết. Mẹ ghẻ liền đưa Cám vào hoàng cung để thay cho Tấm.
Một hôm, Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, thì sở hữu con chim vàng anh ở đâu bay tới, ngừng lại trên một cành cây, kêu lên:
- Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Sau đó, chim vàng anh bay thẳng vào cung điện đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay tới đó. Nhà vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Cám liền về nhà mách nước mẹ. Mẹ ghẻ bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói láo vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám trả lời rằng:
- Thiếp sở hữu mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép đại vương đã giết mổ thịt ăn mất rồi.
Nhà vua nghe vậy thì ko nói gì cả. Thật kì lạ là ở chỗ lông chim vàng anh mọc lên một cây xoan đào, cành lá xum xuê, tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng, ngày ngày nằm ở đó ngơi nghỉ. Cám thấy vậy thì tức lắm, sai thợ chặt cây làm khuông cửi. Lúc vua hỏi, tôi lại nói láo:
- Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khuông cửi để dệt áo cho đại vương.
Sườn cửi đóng xong, Cám vừa ngồi dệt vào dệt thì nghe thấy tiếng kêu:
“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra”
Cám sợ hãi lắm, liền về nhà mách nước mẹ. Mẹ ghẻ khuyên Cám đốt quách khuông cửi rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Cám sai người đem đốt khuông cửi rồi đổ tro ra thật xa hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ sở hữu mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà ko ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem sở hữu điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại sắp rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Lại nói tới Cám sau lúc thấy chị Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền tới hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm ko trả lời chỉ hỏi lại tôi:
- Mang muốn đẹp ko để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một loại hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám ko chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Qua truyện Tấm Cám, nhân dân ta đã gửi gắm khát vọng công bằng, loại thiện thắng lợi loại ác. Cô Tấm hiền lành cuối cùng sống hạnh phúc bên nhà vua, còn mẹ con Cám độc ác thì bị trừng trị.
Bài văn mẫu số 2
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Vốn được mẹ nuông chiều, Cám chẳng phải động tay tới một công việc nào. Còn Tấm phải làm lụng từ sáng tới tối mà vẫn ko hết việc.
Một hôm, mẹ gọi cả hai chị em tới rồi đưa cho mỗi đứa một loại giỏ và bảo:
- Hai con nếu người nào bắt được đầy tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào.
Hai chị em đi ra đồng. Tấm siêng năng lại quen tay nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy tôm tép. Còn Cám , vì mải chơi mà tới cuối buổi chẳng bắt được gì. Chợt Cảm chạy lại và bảo Tấm:
- Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin thật, liền hụp xuống ao sâu tắm rửa sạch sẽ. Cám liền trút hết tôm tép ở giỏ của Tấm sang giỏ của mình, rồi chạy về gặp mẹ để lấy yếm đào. Còn Tấm ở dưới ao lên, nhìn vào giỏ ko còn gì, liền ngồi khóc. Bụt liền hiện lên và bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì ko. Tấm nhìn vào thì thấy một chú cá bống nhỏ. Bụt bảo chị đem cá bống về thả xuống giếng, hàng ngày cho ăn. Mỗi lần cho ăn lại gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm đó, Tấm thường giấu một phần cơm mang ra giếng. Thấy kỳ lạ, Cám bèn rình xem rồi về mách nước mẹ. Mẹ ghẻ lấy lý do làng đã khởi đầu cấm đồng để bắt Tấm chăn trâu ở đồng xa. Còn ở nhà, mẹ con Cám bắt cá bống đem đi giết mổ thịt để nấu bếp. Về tới nhà, như mọi ngày Tấm lại đem cơm ra giếng nhưng gọi mãi ko thấy cá bống đâu. Tấm lại ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm hãy đi tìm xương cho vào bốn chiếc lọ rồi đem chôn ở bốn chân giường. Nhờ sự trợ giúp của gà trống, Tấm tìm được xương cá bống.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội cho người dân khắp nơi tới dự. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mới để đi dự hội. Tấm thưa với mẹ kế muốn đi. Nhưng mẹ kế lại trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt Tấm ở nhà nhặt cho xong. Nói xong, hai mẹ con xúng xính trong quần áo đẹp lên đường tới kinh đô. Tấm tủi thần ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai đàn chim sẻ tới giúp. Sau đó, bụt còn bảo chị đào bốn lọ xương cá bống lên sẽ sở hữu điều kỳ lạ. Lúc Tấm đào lên bốn loại lọ biến ra một bộ quần áo đẹp, một vài hài đẹp và một con ngựa để chị đi dự hội. Ít lâu sau, nghe đồn rằng nhà vua đi qua con sông thấy ngựa ko chịu đi liền sai người xuống sông xem sở hữu điều gì lạ thì vớt được một chiếc hài. Vua nhìn thấy liền đem lòng yêu mến người đi hài, ra lệnh người nào mang vừa sẽ được làm vợ vua. Mẹ con Cám cũng kéo nhau tới thử nhưng chẳng đi vừa. Tới lượt Tấm ướm thử thì vừa như in. Tấm được vua rước vào cung làm hoàng hậu.
Tới ngày giỗ cha, Tấm về ăn giỗ. Mẹ ghẻ bảo chị Tấm trèo cây cau, hái cau cúng cha. Nhân lúc nàng ko quan tâm mà ở dưới chặt đổ cây cau. Tấm ngã xuống ao chết trôi. Mẹ con mẹ kế vào cung khóc lóc kể lể sự tình và xin cho Cám ở lại thay Tấm phục dịch vua.
Một hôm, sở hữu một con chim vàng anh ở đâu bay tới đang lúc Cám giặt quần áo cho vua. Vàng anh kêu lên: “ Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Rồi chim vàng anh bay vào cung vua, ngày ngày vấn vít làm cho nhà vua ko thèm ngó ngàng tới tôi. Cám tức lắm, tìm cách giết mổ chết vàng anh, đem lông chim vứt ngoài vườn. Lúc vua hỏi thì Cám nói láo là mình sở hữu mang thèm ăn thịt chim nên vua ko hỏi gì nữa. Từ chỗ lông chim vàng anh, một cây xoan đào mọc lên, cành lá xum xuê tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ ở đây. Cám thấy vậy thì về nhà liền mách nước mẹ. Cám làm theo lời mẹ sai người chặt cây làm thành khuông cửi. Vua sở hữu hỏi thì Cám lại nói láo là do cây bị đổ vì bão, sai thợ chặt làm khuông cửi để dệt áo cho vua. Nhưng lúc Cám ngồi dệt, bỗng vang lên một giọng nói:
"Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra."
Cám sợ quá, về nhà mách nước mẹ. Mẹ ghẻ cho người tới đốt khuông cửi đi, đổ ra xa khỏi hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ sở hữu mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà ko ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem sở hữu điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại sắp rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Tấm theo nhà vua về cung. Lại nói tới Cám sau lúc thấy Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền tới hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm ko trả lời chỉ hỏi lại tôi:
- Mang muốn đẹp ko để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một loại hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám ko chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh
Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, sở hữu ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước, liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi tới một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền tới sắp. Viên quan hỏi người cha:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi đã hỏi lại:
- Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan vô cùng sửng sốt ko biết trả lời ra sao. Ông mừng lắm, nghĩ thầm đã tìm được người tài, liền trở về bẩm báo với nhà vua.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu đấy đẻ thành chín con, hứa hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu ko thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, cậu bé nói với cha hãy bảo dân làng giết mổ thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp lên để mọi người ăn một bữa cho sướng mồm. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh toan tính việc của làng.
Dân làng nghe vậy, tuy sở hữu ngờ vực nhưng vẫn làm theo, còn bắt họ viết giấy đoan. Sau đó, hai cha con cậu bé sửa soạn lên đường. Tới hoàng cung, người cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhân lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc lóc. Nhà vua nghe thấy liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi:
- Cậu bé kia, sao lại tới đây mà khóc?
Lúc đó, cậu bé mới trả lời:
- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con ko chịu đẻ em bé để chơi với con cho sở hữu bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe cậu bé nói thế, vua và những triều thần đều bật cười. Vua nói:
- Muốn sở hữu em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?
Nghe vậy, cậu bé liền thưa với vua:
- Thế sao vua lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Lúc đó, vua cười và bảo: “
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày ko biết đem trâu đấy ra thịt mà ăn với nhau à?
Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.
Một hôm, lúc hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng sở hữu sứ thần nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa cho sứ thần một loại kim rồi nói:
- Ông cầm loại kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu. Hồi đó, sở hữu một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta sở hữu nhân tài hay ko, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một loại vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Những đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người sử dụng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời kì tìm người giải câu đố.
Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì sở hữu chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói ngọn nguồn câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...”
Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời cậu bé nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách tiện dụng. Nghe vậy, sứ thần nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, sở hữu hai cha con nọ cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, em bé đang phụ cha cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy sở hữu một viên quan từ đâu tới. Lúc tới sắp, viên quan đấy mới chứa tiếng hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, cậu bé mới nhanh mồm hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Sau đó ông ta hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch đi.
Một thời kì sau, nhà vua sai ban cho làng ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đấy đẻ thành chín con, hứa hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu ko thì cả làng phải tội.
Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Cậu bé nghe chuyện liền bảo với cha:
- Chả mấy lúc được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng mồm. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
Ngày hôm sau, người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói ban sơ vô cùng ngờ vực, bắt cha con họ phải làm giấy đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con cậu bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Tới hoàng cung, cậu bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu cậu bé vào, phán hỏi nguyên nhân.
- Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì ko chịu đẻ em bé để chơi với con cho sở hữu bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và những triều thần đều bật cười. Vua phán:
- Muốn sở hữu em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, em bé tươi tỉnh đáp:
- Thế sao làng chúng con lại sở hữu lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày ko biết đem trâu đấy ra thịt mà ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau lúc nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần gật gù rồi sai người đưa hai cha con đi sắp xếp chỗ ăn ở. Qua hôm sau, bỗng sở hữu sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, em bé liền bảo cha lấy cho mình một loại kim may rồi đưa cho sứ thần, bảo:
- Phiền ông cầm lấy loại này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Tức khắc, vua cho gọi cả hai cha con cậu bé vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, sở hữu nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược quốc gia ta. Họ cử viên viên sứ thần sang thăm dò xem nước ta sở hữu nhân tài nào ko. Viên sứ thần tới mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố những quan trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Những quan làm đủ mọi cách: người thì sử dụng mồm hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ thần ở lại cùng ngơi nghỉ vài ngày, kéo dài thời kì cho người đi hỏi ý kiến cậu bé. Nghe chuyện, cậu bé chỉ liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Vua cho người làm theo lời cậu bé. Quả nhiên con kiến đã mang sợi chỉ xuyên qua vỏ ốc trước cặp mắt thán phục của sứ thần láng giềng. Sau đó, nhà vua liền gọi hai cha con cậu bé vào cung, phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.
Kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh
Bài văn mẫu số 1
Xưa, ở quận Cao Bình sở hữu hai vợ chồng đã to tuổi mà vẫn chưa sở hữu một mụn con. Mặc dù nhà nghèo, nhưng họ vẫn thường xuyên trợ giúp mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, bèn sai thái tử đầu thai xuống làm con. Từ đó, người vợ sở hữu mang nhưng mấy nay ko thấy sinh nở. Người chồng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Mãi về sau, người vợ mới sinh ra được một cậu con trai.
Lúc cậu bé vừa lớn khôn thì người mẹ cũng mất. Từ đó, cậu sống thui thủi trong một túp lều dựng dưới gốc đa, cả gia tài chỉ sở hữu lưỡi búa cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh. Năm Thạch Sanh khởi đầu biết sử dụng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho đủ loại võ nghệ, những phép thần thông.
Một lần nọ, sở hữu người hàng rượu là Lí Thông tình cờ đi qua. Thấy Thạch Sanh gánh một bó củi to, hằn thầm nghĩ: “Người này khỏe mạnh, nếu về ở cùng sẽ sở hữu lợi biết bao!”. Rồi Lí Thông mon men gợi chuyện, gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Vốn mồ côi cha mẹ, nay lại sở hữu người săn sóc tới mình, Thạch Sanh cảm động, vui vẻ nhận lời. Sau đó, Thạch Sanh dọn về sống cùng mẹ con Lí Thông.
Bấy giờ, trong vùng sở hữu con chằn tinh sở hữu nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân nhiều lần vây bắt, nhưng đều thất bại. Kể từ đó, dân phải lập miếu thờ, hằng năm nộp cho chằn tinh một mạng người để nó đỡ phá phách. Băm đấy, tới lượt nhà Lý Thông. Mẹ con hắn nghĩ kế để lừa Thạch Sanh đi thay. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi trở về, Lí Thông dọn một mâm rượu thịt, rồi bảo với Thạch Sanh:
- Đêm nay, tới lượt anh đi cánh miếu thời. Ngặt còn mẻ rượu chưa xong, vậy em chịu thương chịu khó thay anh, sáng mai lại về.
Thạch Sanh thực thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm hôm đấy, chàng đang lim dim ngủ thì chằn tinh xuất hiện, giơ nanh vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh lấy búa đánh nhau với con quái vật. Chỉ một lúc, lưỡi búa của chàng đã xả xác con quái vật làm hai. Chằn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ, nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật mang về. Mẹ con Lí Thông đang ngủ, nghe tiếng gọi cửa, ngỡ là Thạch Sanh trở về báo thù. Mẹ con hắn hoảng sợ, van lạy rối rít. Tới lúc Thạch Sanh vào nhà kể rõ mọi chuyện, họ mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế khác, bảo với Thạch Sanh:
- Con trăn đấy nhà vua nuôi đã lâu. Nay em giết mổ nó là mang tội. Thôi hiện giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Mọi chuyện đã sở hữu anh toan tính.
Thạch Sanh ko mảy may nghi ngờ. Chàng vội vàng từ giã mẹ con Lí Thông, trở về gốc đa cũ, lại kiếm củi để nuôi thân. Còn Lí Thông nhân thời cơ đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn phong hắn làm Quận công.
Nhà vua sở hữu công chúa tới tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước sai sứ tới hỏi vợ nhưng nàng ko vừa ý. Nhà vua phải mở một hội to, mời những hoàng từ và con trai trong thiên hạ tới dự, để công chúa đứng trên lầu cao ném quả cầu may. Hễ quả cầu rơi trúng người nào, công chúa sẽ lấy người đó làm chồng. Lúc công chúa sắp ném quả cầu, nàng bỗng bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Nó bị thương nhưng vẫn gắng sức bay về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu, tìm được hang của đại bàng.
Từ ngày công chúa bị mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền sai Lí Thông đi tìm công chúa, hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông bèn cho mở hội hát xướng để nghe ngóng. Nhiều ngày trôi qua vẫn ko sở hữu tin tức. Tới ngày thứ mười, Lí Thông gặp Thạch Sanh đi xem hội. Nghe Lí Thông kể tới việc đi tìm công chúa, Thạch Sanh kể lại chuyện bắn trúng đại bàng. Lí Thông mừng rỡ nhờ Thạch Sanh tới hang của đại bàng.
Tới nơi, Thạch Sanh xin được xuống hang cứu công chúa. Thạch Sanh đánh nhau với đại bàng, cuối cùng cứu được công chúa. Sau lúc đưa được công chúa lên, Lí Thông sai người lấp kín cửa hang lại. Biết mình bị lừa, Thạch Sanh cố tìm lối lên. Chàng đi tới cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh sử dụng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Thì ra đó chính là con trai của vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Lúc chàng về, vua Thủy Tề biếu nhiều vàng bạc, nhưng chàng ko nhận, chỉ xin một cây đàn.
Hồn của đại bàng và chằn tinh lang thang, một hôm gặp nhau bàn cách báo thù. Chúng vào kho nhà vua ăn trộm của nả mang tới giấu ở gốc đa. Thạch Sanh bị bắt vào ngục. Còn về c ông chúa sau lúc cứu thoát, trở về cũng thì bỗng ko nói, ko cười. Nhà vua phải hoãn việc cưới xin lại. Lí Thông tìm mời thầy thuốc về chữa, nhưng cũng ko được.
Một hôm, trong ngục tối, Thạch Sanh đem đàn ra đánh. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Nàng xin vua cho gọi người đánh đàn vào. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh tới gặp, chàng kể hết mọi oan khúc. Mọi người hiện giờ mới biết được sự thực. Nhà vua cho bắt giam mẹ con Lí Thông, ủy quyền Thạch Sanh trừng trị. Chàng nể tình tha cho họ về quê, nhưng đi tới nửa đường thì mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết, rồi hóa kiếp làm bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử những nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn rất tức giận. Họ đem lính tráng sang giao chiến. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa chứa lên đã làm cho quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay, rồi xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi những kẻ thua trận. Cả mấy vạn tướng soái, quân sĩ thấy chỉ sở hữu một niêu cơm bé xíu, tỏ vẻ khinh thường, ko muốn ăn. Thạch Sanh đố họ ăn hết được niêu cơm và hứa sẽ trọng thưởng. Niêu cơm ăn hết lại đầy, họ cúi đầu tạ an vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước. Về sau, nhà vua ko sở hữu con trai nên đã nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, ở quận Cao Bình sở hữu hai vợ chồng đã to tuổi nhưng chưa sở hữu con. Tuy cuộc sống vất vả, nhưng họ vẫn thường xuyên trợ giúp mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng liền sai Thái tử đầu thai xuống làm con. Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, về sau người mẹ cũng qua đời. Cậu sống một mình ở gốc đa, dân làng thường gọi là Thạch Sanh. Lúc to lên, Thạch Sanh được thiên thần dạy cho đủ loại võ nghệ và mọi phép thần thông.
Một hôm, sở hữu người hàn rượu là Lí Thông đi ngang qua gốc đa. Thấy Thạch Sanh sở hữu sức khỏe, hắn liền mon men tới gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh đồng ý, rồi dọn về ở cùng mẹ con Lí Thông.
Trong vùng sở hữu một con chằn tinh sở hữu nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân đã nhiều lần diệt trừ nhưng ko làm gì được. Dân làng phải lập miếu thờ, hằng năm lại nộp cho nó một mạng người. Năm đấy tới lượt nhà Lí Thông, hắn liền nghĩ kế làm cho Thạch Sanh đi nộp mạng thay mình. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi về đã thấy một bàn tiệc rượu. Lí Thông liền nói:
- Đêm nay, anh phải đi canh miếu thờ. Nhưng mẻ rượu mới chứa vẫn chưa xong, nên phiền em đi thay, tới sáng thì về.
Thạch Sanh chẳng nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Đêm đấy, Thạch Sanh đang lim dim ngủ thì chằn tinh hiện ra định vồ lấy chàng. Chàng sử dụng nhiều võ thuật giết mổ chết con quái vật. Nó hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Chàng chặt đầu con quái vật đem về. Lúc bấy giờ, mẹ con Lí Thông hãy còn đương ngủ. Nghe tiếng gõ cửa, tưởng Thạch Sanh về đòi mạng thì sợ hãi, van lạy rối rít. Tới lúc Thạch Sanh vào nhà, kể rõ sự tình, chúng mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế lừa Thạch Sanh:
- Đấy là con vật vua nuôi. Em giết mổ nó ắt phải chịu tội. Bấy giờ em hãy trốn đi, mọi chuyện để anh toan tính.
Một lần nữa, Thạch Sanh chẳng chút nghi ngờ, trốn về gốc đa cũ. Còn Lí Thông thì mang đầu con quái vật tới lĩnh thưởng. Nhà vua sở hữu con gái tới tuổi lấy chồng, liền cho tổ chức lễ kén rể. Trong lễ kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quặp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền sử dụng cung tên bắn nó rồi lần theo vết máu biết được hang của đại bàng. Từ ngày công chúa mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua sai Lí Thông đi tìm và hứa gả công chúa cho. Lí Thông lo lắng, ko biết làm thế nào. Sau hắn cho dân mở hội hát xướng để nghe ngóng tin tức. Tình cờ, Thạch Sanh tới xem, biết được chuyện đi cứu công chúa. Chàng nói mình biết hang của đại bàng và xin được đồng hành. Tới hang, Thạch Sanh xin xuống hang cứu công chúa, nhưng sau đó bị Lí Thông nhốt lại dưới hang. Ở đây, chàng cứu được con trai Vua Thủy Tề, được mời xuống thủy phủ chơi và tặng cho một cây đàn thần.
Sau lúc trở về, Thạch Sanh bị oan hồn chằn tinh và đại bàng hãm hại, bị bắt vào ngục tối. Trong ngục, Thạch Sanh đánh đàn để giãi bày nỗi oan khúc. Lại nói tới công chúa, sau lúc trở về cung thì chẳng nói chẳng cười. Nhà vua cho hoãn việc cưới xin, tìm người chữa chạy ko khỏi. Một hôm, công chúa nghe thấy tiếng đàn liền nói cười được. Nhà vua thấy lạ bèn cho gọi Thạch Sanh vào gặp. Chàng liền đem hết nỗi oan kể cho vua nghe. Lí Thông thì bị trừng trị thích đáng, còn Thạch Sanh được vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử những nước chư hầu đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa chứa lên đã làm cho quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi ko hết niêu cơm bé xíu liền cảm ơn rồi kéo nhau về nước. Về sau, vua ko sở hữu con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
--- Cập nhật: 10-03-2023 --- nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Top 20 mẫu Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em siêu hay từ website hoatieu.vn cho từ khoá kể lại một truyện cổ tích.
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em gồm những bài văn kể lại những câu chuyện đã được học hay được đọc như những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích nhằm giúp những em hoàn thiện cách làm bài văn kể chuyện, chuẩn bị tốt cho bài tập làm văn của mình.
Dưới đây là top 20 mẫu kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết lớp 6 hay nhất được HoaTieu.vn sưu tầm từ những bài văn đạt điểm cao của học trò trên cả nước. Những câu chuyện được kể đều truyện cổ tích hay truyền thuyết thân thuộc và gắn bó với nhiều thế hệ tuổi thơ người Việt Nam như: kể lại một truyện cổ tích Thạch Sanh, Sọ Dừa, Thánh Gióng, Em bé thông minh, Cây tre trăm đốt... Những em tham khảo để tự viết cho mình một bài kể chuyện thật hay nhé.
1. Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em số 1
Trong những câu chuyện cổ tích mà em đã từng được đọc, thì câu chuyện em thích nhất chính là truyện cổ tích Thạch Sanh.
Câu chuyện kể về thế cục của Thạch Sanh - một chàng trai dũng cảm, tốt bụng và tài năng. Chàng vốn là thái tử ở trên thiên tào, được Ngọc Hoàng phái xuống làm con của hai vợ chồng già tốt bụng. Cha chàng qua đời trước lúc chàng được sinh ra. Mấy năm sau, mẹ chàng cũng qua đời. Để lại Thạch Sanh sống cánh tứ cố vô thân, thui thủi trong một túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của chàng là một lưỡi búa của cha để lại. Năm chàng biết sử dụng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho chàng đủ những môn võ nghệ và mọi phép thần thông.
Thạch Sanh là người luôn khát khao mái ấm gia đình. Vì vậy, chàng đã bị Lý Thông lường gạt, tới sống chung và làm lụng trợ giúp mẹ con nhà hắn. Sau này, chàng còn bị Lý Thông lừa tới miếu thờ nộp mạng cho chằn tinh thay hắn. May mắn nhờ sở hữu võ nghệ và phép thần thông, Thạch Sanh đã giết mổ chết và chặt đầu chằn tinh mang về. Lần này, chàng lại bị Lý Thông lường gạt cướp công giết mổ chằn tinh, còn bản thân thì lại trở về thui thủi một mình dưới gốc đa.
Sau này, trong một lần tình cờ, chàng nhìn con đại bàng tinh đang bắt một cô gái bay ngang qua. Thế là Thạch Sanh liền bắn bị thương cánh của đại bàng, rồi lần theo vết máu mà đuổi tới hang của đại bàng, nhằm tìm cách cứu cô gái. Tuy biết được sào huyệt của đại bàng, nhưng Thạch Sanh vẫn chưa tìm ra cách cứu cô gái vì loại hang quá sâu, một mình chàng thì ko đưa cô gái lên được. Đúng lúc đó, chàng gặp lại Lý Thông, một lần nữa hắn lại tìm cách lừa chàng. Thì ra, cô gái đó chính là công chúa, và nhà vua đã ra lệnh rằng, nếu người nào cứu được công chúa sẽ được cưới nàng và nối ngôi vua. Thạch Sanh ko chút nghi ngờ, ngay thức thì dẫn Lý Thông và quân lính tới hang đại bàng. Chàng chủ động nhảy xuống đưa công chúa lên trước. Tới lượt chàng, Lý Thông sai quân lính lấp cửa hang lại. Tới lúc này chàng mới nhìn thấy gương mặt độc ác, xảo trá của hắn.
Cửa hang bị lấp lại, Thạch Sanh cố tìm cách ra ngoài bằng một lối đi khác. Trong quá trình đó, chàng họp mặt và cứu thoát con trai vua Thủy Tề khỏi cũi sắt. Sau đó, chàng được mời xuống thủy cung và được vua thủy tề tạ ơn hậu hĩnh. Thế nhưng với tính cách thực thà, chàng chỉ xin nhận một cây đàn rồi lại trở về túp lều cũ dưới gốc đa.
Trở về nhà, chàng lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Ngày ngày, sau lúc làm việc mỏi mệt thì chàng lại lấy cây đàn ra để giải khuây. Tiếng đàn của chàng vọng tới cung công chúa, làm cho nàng bật cười vui vẻ. Thì ra từ lúc được cứu ra khỏi hang đại bàng, công chúa lúc nào cũng ủ rũ, buồn bã. Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch Sanh vào cung để truy hỏi cho rõ ràng. Tới nơi, Thạch Sanh kể rõ sự tình cho mọi người. Tới đây, sự thực được phơi bày. Mẹ con Lý Thông bị đem ra xử phạt, còn Thạch Sanh trở thành phò mã. Thế nhưng với lòng thương người, chàng đã tha cho mẹ con Lý Thông và để họ về quê. Nhưng trên phố về họ bị sét đánh trúng và biến thành bọ hung.
Sau lúc đám cưới của Thạch Sanh và công chúa diễn ra thì hoàng tử những nước chư hầu đem quân sang tiến công nước ta vì ghen ghét. Thạch Sanh đã xin nhà vua cho mình được ứng chiến. Tới nơi, chàng sử dụng tiếng đàn để làm quân địch bủn rủn thủ công, ko suy nghĩ gì về việc đương đầu. Sau đó, chàng sử dụng niêu cơm thần ăn mãi ko hết làm cho cho quân lính những nước chịu thua. Vì ko người nào sở hữu thể ăn hết cơm được. Do đó, quân của những nước chư hầu buộc phải rút về. Sau này, Thạch Sanh nối ngôi vua, trở thành một vị hoàng đế.
Câu chuyện vô cùng hay và quyến rũ em ko chỉ vì nó sở hữu nhiều chi tiết kì ảo thú vị. mà còn bởi vì trong nó, chứa đựng những ước mơ, niềm tin của nhân dân về loại thiện, loại chính sẽ luôn thắng loại ác, loại tà. Đây là một tư tưởng vô cùng tốt đẹp, cần được giữ gìn và phát huy.
2. Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích số 2
Sọ Dừa là câu chuyện cổ tích trước nhất em được đọc, và đó cũng là câu chuyện em yêu thích nhất.
Chuyện kể về một người phụ nữ, vì uống nước trong loại gáo dừa, mà mang thai và sinh ra đứa con sở hữu ngoại hình xấu xí, kì lạ. Thế là bà đặt tên cho con là Sọ Dừa. Tuy vẻ ngoài xấu xí, đi lại bất tiện, nhưng Sọ Dừa vẫn rất siêng năng, chịu thương chịu khó. Chàng đã nhờ mẹ xin cho được đi chăn bò của nhà phú ông. Đáp lại sự nghi ngờ của mọi người, chàng ko chỉ trông được đàn bò, mà còn chăm chúng béo tốt. Trong thời kì đấy, con gái út của phú ông ko ngại vẻ ngoài của Sọ Dừa, mà vẫn mang cơm tới cho chàng. Cảm động, chàng nhờ mẹ tới hỏi cưới cô. Ngày cưới, Sọ Dừa trở về hình dáng thông thường, tuấn tú tuấn tú, lại sở hữu nhà rộng, gia nhân tấp nập làm cho người nào cũng ngạc nhiên. Ko chỉ thế, sau lúc kết hôn, Sọ Dừa còn siêng năng dùi mài kinh sử, thi đỗ Trạng Nguyên. Điều đó làm cho cho hai chị gái của vợ chàng hết sức ghen ghét.
Nhân lúc Sọ Dừa đi sứ, hai cô chị rủ cô em ra biển chơi, rồi đẩy cô xuống nước, hòng cướp đoạt vị trí vợ Trạng Nguyên. Nhưng may mắn, nhờ vào hòn đá lửa, con dao và mấy quả trứng gà Sọ Dừa dặn mang theo, mà cô em gái sống sót được. Cuối cùng, khổ tận cam lai, hai vợ chồng sum hiệp được với nhau, sống hạnh phúc tới cuối đời. Còn hai cô chị xấu xa thì tủi nhục mà bỏ đi biệt xứ.
Qua câu chuyện Sọ Dừa, tác giả dân gian đã gửi gắm chúng ta bài học về cách đối nhân xử thế, ko nên quan yếu vẻ thiết kế, mà phải chú trọng tới phẩm chất. Một người sở hữu trái tim nhân hậu, tốt bụng, thông minh thì mới là người đáng quý.
3. Kể lại truyện cổ tích Em bé thông minh bằng lời văn của em số 3
Trong kho tàng truyện cổ tích của dân tộc ta, em rất thích những câu chuyện về những nhân vật sở hữu tài trí hơn người. Trong đó, em thích nhất là câu chuyện Em bé thông minh.
Câu chuyện khởi đầu tại một làng nọ, sở hữu hai cha con tuy nghèo nhưng sống rất hạnh phúc. Đặc thù là người con trai, ko chỉ ngoan ngoãn mà còn vô cùng thông minh. Một hôm, lúc hai cha con đang cày ruộng thì gặp sứ thần tới hỏi chuyện. Thì ra, ông đấy được nhà vua phía đi tìm kiếm người những người hiền tài để xây dựng quốc gia. Trước câu đố hóc búa của sứ thần, rằng con trâu kia một ngày sở hữu thể cày được mấy đường. Thì cậu bé đã tiện dụng hóa giải lúc thách đố trái lại ông ta rằng hãy nói xem ngựa của sứ thần một ngày đi được bao nhiêu bước. Sự tài trí đó của cậu bé đã làm cho cậu nhanh chóng được nhà vua chú ý tới. Tuy nhiên, nhà vua vẫn chưa yên tâm nên tiếp tục thử tài cậu. Lần thứ nhất, vua đưa cho làng cậu bé ba con trâu đực cùng ba thúng gạo nếp, yêu cầu sau một năm giao nộp chín con trâu. Tuy nhiên, cậu bé đã lên kinh, đố trái lại nhà vua, rằng hãy làm cho cha cậu sinh em bé. Còn số trâu và gạo nếp kia, cậu đã cùng ca rlangf đem ra ăn uống no say rồi. Sự thông minh, nhanh nhạy của cậu làm vua rất thích thú. Tuy nhiên, ngài vẫn quyết định thử tài cậu thêm lần nữa. Lần này, nhà vua đã yêu cầu cậu bé mổ một con chim sẻ để làm ra ba mâm cỗ. Nhưng yêu cầu này chẳng làm khó được cậu. Ngay ngay thức thì, cậu bé đem ra một chiếc kim khâu và nhắn nhủ, nhờ nhà vua mài nó thành một con dao để mổ thịt chim. Tới lần này, thì nhà vua hoàn toàn thán phục trước trí tuệ cao siêu của cậu.
Đúng thời kì đó, sở hữu sứ thần của nước láng giềng sang thăm. Mục đích là tra tim xem nước ta sở hữu người tài hay ko, để tiến hành xâm lược. Hắn đưa ra một thắc mắc vô cùng hóc búa để thực hiện mục đích. Cả triều trình cùng nhau căng não nhưng ko người nào biết cách nào để đưa sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc cả. ẤY vậy mà, ngay lúc vừa nghe câu đố, em bé đã đưa ra được câu trả lời ngay. Biết vậy, tên sứ thần vội trở về nước bẩm tấu, rằng ko nên tiến công nước ta vì nước ta sở hữu người rất tài giỏi. Sau lần đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên, và thường xuyên được nhà vua mời sang hỏi về chuyện nước nhà.
Sau lúc đọc câu chuyện Em bé thông minh, em rất khâm phục trí tuệ cao siêu, vốn hiểu biết sâu rộng của cậu bé nhỏ tuổi. Và lấy đó làm động lực để phấn đấu phấn đấu học tập tốt hơn nữa.
4. Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích lớp 6 số 4
Một trong những truyền thuyết nổi tiếng của nước ta vừa thời những vua Hùng dựng nước và giữ nước chính là truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, ko chỉ lý giải hiện tượng thiên tai bão lũ hàng năm mà còn tượng trưng cho việc con người đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ cuộc sống suốt hàng nghìn năm qua.
Chuyện kể rằng thời vua Hùng thứ 18 sở hữu một nàng công chúa là Mị Nương, xinh đẹp tuyệt trần, vua muốn kén cho con gái yêu một chàng rể tài giỏi nên bèn ban chiếu khắp thiên hạ để tuyển phò mã. Một hôm sở hữu hai chàng trai tuấn tú tuấn tú tới xin việc, một người là Sơn Ý thức núi Tản Viên, một người là Thủy Tinh chúa miền nước thẳm, cả hai tài sức đều ngang nhau, vua rất khó nghĩ nên đã ra điều kiện sính nghi là một trăm ván cơm nếp, một trăm đòn bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín lông hồng, mỗi thứ một vài, sáng hôm sau người nào mang sính nghi tới trước thì được cưới Mị Nương.
Sáng hôm sau Sơn Tinh mang đủ lễ vật và rước Mị Nương đi sớm, Sơn Tinh tới muộn, ko cưới được vợ nên tức giận đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thủy Tinh ra sức hô mưa gọi gió, dâng nước lên cao làm ngập lụt hết nhà cửa, thuồng luồng quái vật bơi khắp nơi, Sơn Tinh cũng ko thua kém liền làm phép nâng núi đồi lên cao chống lại lũ lụt. Hễ Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm phép cho núi cao bấy nhiêu, đánh nhau suốt cả mấy ngày đêm mà hai vị thần vẫn bất phân thắng phụ, cuối cùng sờn Thủy Tinh đành tháo lui. Nhưng hằng năm vị thần này vẫn ghi hận cũ, đều dâng nước làm lụi lội một thời kì, sau thấy vẫn ko khuất phục được vị thần núi kia nên đành rút quân, năm nào cũng vậy.
Câu chuyện là cách mà người xưa lý giải về thiên tai, đồng thời cũng phản ánh ý chí sức mạnh của con người lúc đối nghịch với thiên nhiên để bảo vệ cuộc sống. Đây là một câu chuyện sở hữu ý nghĩa to phản ánh phong tục tập quán và cuộc sống của con người Việt Nam từ thuở xa xưa.
5. Bằng lời văn của mình, kể lại một câu chuyện truyền thuyết mà em đã biết số 5
Những bạn sở hữu biết vì sao nhân dân ta tự xưng là con Rồng cháu Tiên hay ko? Điều đó sở hữu liên quan tới câu chuyện sau đây:
"Ngày xưa, ngày xửa từ lâu lắm rồi, ở vùng đất Lạc Việt, nay là Bắc Bộ nước ta sở hữu một vị thần. Thần là con của Thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng sức khỏe vô địch, thường sống ở dưới nước. Thần giúp dân diệt trừ yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh... Thần còn dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và dạy dân cách ăn ở sao cho đúng nghĩa.. Lúc làm xong thần trở về Thủy cung sống với mẹ lúc sở hữu việc cần mới hiện lên.
Bấy giờ, ở vùng núi cao phương Bắc, sở hữu vị tiên xinh đẹp tuyệt trần là con gái Thần Nông tên là Âu Cơ. Nàng nghe nói ở vùng Lạc Việt sở hữu nhiều hoa thơm cỏ lạ bèn tìm tới thăm. Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau đem lòng yêu nhau rồi trở thành vợ chồng chung sống ở Long Trang. Chung sống với nhau được chừng một năm, Âu Cơ mang thai. Tới kì sinh nở, Âu Cơ sinh ra một loại bọc trăm trứng, trăm trứng nở ra một trăm đứa con da dẻ hồng hào. Ko cần bú mớm mà vẫn to nhanh như thổi mặt mũi tuấn tú tuấn tú, đẹp đẽ như thần. Cuộc sống hai vợ chồng đã hạnh phúc lại càng hạnh phúc hơn.
Một hôm, Lạc Long Quân chợt nghĩ mình là dòng nòi rồng sống ở vùng nước thẳm ko thể sống trên cạn mãi được. Chàng bèn từ giã vợ và và con về vùng nước thẳm. Âu Cơ ở lại trông đợi Lạc Long Quân trở về, tháng ngày chờ đợi mòn mỏi, buồn bã. Nàng bèn tìm ra bờ biển, chứa tiếng gọi:
- Chàng ơi hãy trở về với thiếp.
Tức khắc, Lạc Long Quân hiện ra. Âu cơ thở than:
- Sao chàng bỏ thiếp mà đi, ko ở lại cùng thiếp nuôi dạy những con nên người?
Lạc Long Quân bèn giảng giải:
- Ta vốn dĩ rất yêu nàng và những con nhưng ta là nòi Rồng, đứng đầu những loài dưới nước còn nàng là giống tiên ở chốn non cao. Tuy âm dương khí tụ mà sinh con nhưng ko sao sum hiệp được vì hai giống tương khắc như nước với lửa. Nay đành phải chia lìa. Ta đem năm mươi người con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản những phương. Lúc sở hữu việc cần phải trợ giúp lẫn nhau, đừng bao giờ quên lời hứa hẹn này.
Rồi Lạc Long Quân đưa năm mươi người con xuống nước còn Âu Cơ đưa năm mươi người con lên núi.
Người con trai trưởng đi theo Âu Cơ sau này được tôn lên làm vua và đặt tên nước là Văn Lang, niên hiệu là Hùng Vương. Mỗi lúc vua chết truyền ngôi cho con trai trưởng. Cứ cha truyền cho con tới mười mấy đời đều lấy niên hiệu là Hùng Vương."
Do vậy, cứ mỗi lần nhắc tới nguồn gốc của mình Người Việt chúng ta thường tự xưng là con Rồng cháu Tiên và thân tình gọi nhau là đồng bào vì người nào cũng nghĩ mình là cùng một bọc sinh ra cho nên người trong một nước phải thương yêu nhau tương tự. Câu chuyện còn tôn vinh nguồn gốc cao quý thiêng liêng của cùng đồng người Việt và tự hào về nguồn gốc của dân tộc mình.
6. Kể một câu chuyện, em thích bằng lời văn của em ngắn gọn số 6
Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có nhẽ người nào lúc đấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng uy phong như thế.
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở láng Gióng, sở hữu hai vợ chồng nông dân, vừa siêng năng làm ăn lại sở hữu tiếng phúc đức nhưng tới lúc sắp về già mà vẫn chứa sở hữu lấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng, thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, nhưng mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi tuấn tú, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Thuở đấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược lãnh thổ nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, nhân dân vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ thần đi tới mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Người nào sở hữu tài, sở hữu sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng chứa tiếng nói trước nhất:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ thần vào đây cho con.
Thấy vậy, bà mẹ rất bất thần vui mừng, vội đi ra mời sứ thần vào nhà. Gióng yêu cầu sứ thần về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau lúc sứ thần trở về, Gióng ăn rất khỏe và to nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng ko no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi ko đủ đành nhờ tới láng giềng láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Người nào cũng kỳ vọng Gióng sớm ngày ra giết mổ giặc giúp nước, trừ họa cho dân.
Ngày đấy, giặc vừa tới sát chân núi Trâu thì sứ thần cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, ngay thức thì trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.
Trên chiến trường, Gióng vùng vẫy ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Lúc trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.
Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân tư thục đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, lúc ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Tới nay làng đấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ tiếp nối nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
7. Kể lại một truyền thuyết bằng lời văn của em số 7
Đã thành lệ, đêm nào, trước lúc đi ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe. Đêm qua, bà kể chuyện “Cây tre trăm đốt”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút theo từng lời kể quyến rũ của bà...
Ngày xưa sở hữu một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi ở cho một lão nhà giàu. Anh rất siêng năng lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh tới và ngọt nhạt dỗ ngon dỗ ngọt:
- Con chịu thương chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm nữa, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể vần vật I làm giàu cho lão. Ba năm sau, nhờ công sức anh, lão chủ sở hữu thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được vườn. Tuy nhiên, lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân tình bảo anh trai cày:
- Con thật sở hữu công với gia đình ta. Con đã chịu thương chịu khó ba năm, trồng cây sắp tới ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh ko biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hí hửng bảo nhau: “Chiếc thằng ngốc đấy sở hữu đi quanh năm suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”
Về phần anh trai cày, anh hì hụi trèo đèo lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm mà chỉ thấy những cây tre thấp bé thông thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi:
- Làm sao con khóc?
Anh trai cày thưa rõ ngọn nguồn câu chuyện. Bụt cười và bảo:
- Khó gì việc đấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc nhập, khắc nhập” thì sẽ sở hữu ngay cây tre trăm đốt.
Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre dính liền nối nhau thành một cây tre đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Song, tre dài quá, vướng bờ vướng bụi, ko sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc, Bụt lại hiện lên hỏi:
- Cây tre trăm đốt sở hữu rồi, sao con còn khóc?
Anh nói tre dài quá ko vác về nhà được, Bụt liền bảo:
- Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre đấy sẽ rời ra!
Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó, mừng rỡ gánh về.
Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng ko nói năng gì, lẳng lặng gấp trăm đốt tre nối nhau và hô: “Khắc nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại sắp xem. Anh đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”. Lão tà dính liền ngay vào cây tre, ko tài nào dứt ra được. Lão thông gia thấy vậy chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới sắp, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc nhập”. Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho anh ngày hôm đó. Lúc bấy giờ, anh mới thong dong đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt đời.
Lúc nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, những bạn nhỏ ngồi quanh bà đều là lên: “Đáng đời cho bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Mấy lời đó đã làm em ngẫm nghĩ: Tụi nó nhỏ mà cũng biết suy xét phải trái. Ở đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho mình, còn những người hiền lành, siêng năng như anh trai cày sẽ được mọi người yêu quý và đạt được kết quả tốt đẹp.
8. Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết lớp 6 số 8
Lúc còn nhỏ, em thường được nghe ông và bà kể cho nghe những câu chuyện cổ tích rất ý nghĩa. Một trong số truyện cổ tích ông kể mà em ấn tượng nhất là truyện Cây tre trăm đốt, ông kể trong lúc em và ông cùng đi chặt tre làm diều.
Ngày xưa sở hữu một phú ông nhà giàu nhưng lại bủn xỉn keo kiệt, ông ta thuê anh nông dân nghèo sở hữu tính chuyên cần chịu thương chịu thương chịu khó cày ruộng. Ông ta chỉ muốn anh nông dân làm cho mình mà lại ko mất tiền thuê nên đã hứa hứa hẹn rằng "Anh hãy chịu thương chịu khó cày ruộng cho ta trong ba năm, hết thời kì đó ta sẽ gả con gái cho anh". Anh chàng này tưởng thật, làm ngày làm đêm ko quản nhọc mệt, mang về cho phú ông lúa thóc chất đầy kho.
Cuối cùng cũng tới hạn ba năm, đang nô nức được lấy con gái phú ông thì anh nông dân lại bị lão ta lừa. Một mặt phú ông bảo anh vào rừng chặt cây tre trăm đốt về làm đũa mời cỗ cả làng, mặt khác sau lúc anh đi lão ta bèn mở tiệc gả con gái cho tên nhà giàu khác. Ở bên này anh nông dân sau lúc vào rừng chặt hết cả rặng tre, quần áo rách tơi tả, chân tay bị cứa chảy máu vẫn ko tìm được cây tre đủ 100 đốt. Nghe tiếng khóc của anh đã sở hữu một ông bụt hiện lên và trao cho anh câu thần chú "Khắc nhập, khắc xuất", anh chặt đủ 100 đốt tre, đọc câu "khắc nhập" là từng đốt tre nhập thành cây tre đủ 100 đốt. Anh vui mừng đem tre về thì phát hiện ra phú ông lừa mình, anh liền đọc câu thần chú "khắc nhập" nhốt ông vào cây tre, sau lúc nghe ông ta van xin và hứa ko bày mưu lừa hại anh nữa anh mới đọc "khắc xuất" để thả ông ta ra. Từ đó anh nông dân lấy con gái phú ông và sống hạnh phúc tới cuối đời.
Tuy chỉ là truyện cổ tích nhưng thực sự rất sắp gũi với cuộc sống hàng ngày, phú ông và cây tre trăm đốt giống như những vấn đề, thử thách và trở ngại mà ta phải vượt qua trong cuộc sống. Hãy luôn phấn đấu và sống thật tốt, mọi chuyện sẽ luôn sở hữu cách khắc phục.
9. Kể lại câu chuyện cây khế bằng lời văn của em (6 mẫu)
- Top 6 mẫu Kể lại câu chuyện cây khế bằng lời văn của em
Từ ngày còn bé em đã rất yêu thích những câu chuyện cổ tích. Trong đó, em thích nhất là Sự tích cây khế, câu chuyện kể về hai anh em nhà nghèo cùng chú chim thần ăn khế trả vàng. Qua đó gửi tới bài học sâu sắc về lòng tham lam của con người. Hôm nay, em xin kể cho mọi người cùng nghe câu chuyện Sự tích cây khế nhé!
Ngày xưa ngày xưa, ở một làng nọ, sở hữu gia đình cha mẹ mất sớm, để lại hai anh em mồi côi trơ trọi, phải sống nương tựa vào nhau. Ngày qua ngày, hai anh em to dần lên. Thế rồi người anh cũng đi lấy vợ.
Vợ chồng người anh tham lam, giành hết của nả với lí do phải lo hương hỏa cho cha. Họ chỉ chia cho em khoảnh đất nhỏ sở hữu trồng một cây khế. Người em hiền lành và siêng năng, ngày ngày chăm chút cho cây. Tới ngày thu hoạch, người em rầu rĩ vì một đàn chim lạ tới ăn sắp hết những quả khế ngọt mà chàng đã dày công vun trồng. Đang ngồi bó gối ủ rũ, giọt ngắn giọt dài khóc lóc cho số phận hẩm hiu của mình, người em nghe văng vọng tiếng nói phát ra từ trên cành khế: “Chúng tôi ko phải chim thường đâu. Ăn khế trả vàng. May túi ba gang, mang theo mà đựng”.
Y lời hứa hẹn, sáng sớm hôm sau, Chim Thần dịu anh trên lưng và bay ra một hòn đảo xa tít ngoài khơi. Trên đảo ko một bóng người, ko sở hữu tín hiệu của sự sống, chỉ toàn vàng bạc châu báu. Thực chất thực thà, người em làm đúng lời dặn của Chim Thần. Chim mang chàng về nhà với túi ba gang đầy vàng bạc đủ sống cả đời.
Cuộc sống người em thay đổi. vẫn lao động siêng năng, thêm của nả trời cho, chẳng bao lâu, người em trở nên giàu sở hữu nhất vùng. Người anh hay tin tìm tới để rõ ngọn nguồn.
Sau lúc nghe em kể ngọn nguồn câu chuyện, người anh đề nghị đổi cả gia tài để lấy mảnh đất nhỏ sở hữu cây khế. Người anh cũng gặp và được Chim Thần hứa trả vàng sau lúc ngồi than khóc, kể lể. Vốn tính tham lam, thêm nghe lời vợ xúi, người anh đã may ba bao, mỗi bao dài bảy gang, trái hẳn với lời dặn của Chim Thần. Dọc đường bay về, vì số của nả quá nặng, Chim Thần kêu người anh bỏ bớt nhưng vì tham lam, tiếc của, hắn ko nghe. Kết quả, chim đuối sức, chao cánh và kẻ tham lam bị rơi xuống biển cùng số của nả.
Kẻ tham lam và tàn nhẫn với máu mủ ruột thịt sở hữu một kết cuộc bi đát. Một câu chuyện thật hay, để lại cho chúng ta một bài học quý giá trong thế cục, đó là “Tham thì thâm”.
10. Kể chuyện Thạch Sanh bằng lời văn của em (6 mẫu)
- Top 6 mẫu Kể chuyện Thạch Sanh bằng lời văn của em
Câu tục ngữ Ở hiền gặp lành sở hữu trị giá nhân văn cao đẹp, là bài học về đạo lý làm người được ông cha ta truyền dạy cho con cháu tự nghìn đời nay. Đạo lý đấy cũng thấm đượm trong những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mà mẹ và bà vẫn thường kể cho em nghe. Trong đó tiêu biểu câu chuyện Thạch Sanh đã để lại cho em nhiều bài học hay.
Thạch Sanh là truyện kể về người anh hùng mang sức mạnh phi thường, sở hữu tấm lòng nhân hậu, đương đầu chống loại ác, bảo vệ bình yên cho người dân.
Câu chuyện khởi đầu từ thời xa xưa, trong một ngôi làng tại quận Cao Bình sở hữu đôi vợ chồng nghèo túng sống qua ngày bằng công việc lên rừng đốn củi đổi lấy gạo. Với tính cách hiền lành, thực thà luôn sẵn lòng trợ giúp mọi người xung quanh, nhưng lạ thay mãi mà họ vẫn chưa sở hữu một đứa con. Thấy thế Ngọc Hoàng thương cảm bèn sai thái tử xuống đầu thai làm con cho gia đình đó. Người vợ mang thai ko được bao lâu thì người chồng qua đời, rồi người vợ cũng theo chồng mình từ giã cõi đời chỉ sau một thời kì ngắn sinh con. Cậu bé sống trong một túp lều cũ bên gốc đa, mồ côi cha mẹ nên mọi người gọi là Thạch Sanh. Mỗi ngày cậu bé đều sử dụng chiếc lưỡi búa của cha để lại lên rừng đốn củi kiếm sống.
Một ngày nọ, Lý Thông – chàng trai con nhà chứa rượu đã ghé qua gốc đa nghỉ mát thì gặp Thạch Sanh, thấy chàng khỏe mạnh, siêng năng nên Lý Thông đã phát sinh mưu đồ lợi dụng. Hắn muốn kết nghĩa anh em và Thạch Sanh cảm động vì được quan tâm nên đã đồng ý theo hắn ta về nhà. Một con Chằn tinh hung ác ăn thịt người, sở hữu phép lạ lúc bấy giờ xuất hiện trong làng làm cho người nào cũng khiếp sợ. Mỗi năm đều đặn phải khấn cho nó một mạng để sở hữu thể sống yên ổn qua ngày. Lần này tới lượt Lý Thông nạp mình, hai mẹ con hắn đã mưu kế lừa Thạch Sanh tới thay mình. Tuy nhiên con Chằn tinh đã bị hạ gục, hiện hình là một con trăn to nhờ vào sức mạnh của chàng cùng vũ khí là chiếc búa. Thạch Sanh trở về đem theo bộ cung bằng vàng của con yêu quái đó. Ko ngừng lại ở đây, Lý Thông tiếp tục lường gạt Thạch Sanh rồi tới tâu vua mình đã hạ thủ Chằn Tinh nên đã được phong làm đô đốc.
Dù đã tới tuổi lấy chồng mà công chúa mãi chưa tìm thấy chàng trai vừa ý. Thế là nhà vua bèn tổ chức một ngày hội to, thời cơ cho những hoàng tử nước láng giềng và con trai trong thiên hạ tới, công chúa sẽ từ trên lầu cao ném quả cầu may, người nào nhặt được thì vua sẽ gả công chúa cho người đó. Con Đại bàng – một con yêu tinh trên núi tình cờ bay qua và mang theo công chúa đi. Ngồi dưới gốc đa Thạch Sanh đã nhìn thấy lần theo được tới chỗ ở của quái vật qua vết máu lúc chàng bắn vào con quái vật.
Nhà vua sai Lý Thông đi tìm công chúa, hứa sẽ gả cho hắn và truyền ngôi. Thế là hắn bèn tìm tới Thạch Sanh nhờ trợ giúp. Lúc công chúa được Thạch Sanh giải cứu an toàn thì Lý Thông dở trò, nhốt luôn chàng ở trong hang. Con Đại bàng cũng bị xoá sổ sau một trận đánh kịch liệt, song song đó chàng đã tìm thấy và cứu thoát con trai của Vua Thủy. Thạch Sanh được vua ban ơn cho rất nhiều vàng ngọc nhưng chàng chỉ xin lấy cây đàn thần rồi trở lại gốc đa. Vì oán hận nên hôn của chằng tinh và đại bàng đã quay lại trả thù làm cho Thạch Sanh bị bắt vào ngục.
Từ lúc được cứu trở về thì công chúa ko nói cũng chẳng cười làm cho nhà vua lo lắng. Lúc tiếng đàn của Thạch Sanh chứa lên đã hóa giải, giúp công chúa trở lại thông thường. Nhà vua lúc này đã biết được hết sự thực về công lao của Thạch Sanh và gương mặt tàn ác của mẹ con Lý Thông. Vua cho chàng xử tội nhưng chàng đã tha cho hai mẹ con nhà Lý Thông quay về làm ăn. Quả nhiên trên phố trở về họ đã bị sét đánh chết. Về sau vì ko sở hữu con nên vua đã truyền lại ngôi cho Thạch Sanh.
Mời những em học trò truy cập group Bạn Đã Học Bài Chưa? để đặt thắc mắc và san sẻ những tri thức học tập chất lượng nhé. Group là thời cơ để những bạn học trò trên mọi miền quốc gia cùng giao lưu, trao đổi học tập, kết thân, hướng dẫn nhau kinh nghiệm học,...
Mời những bạn tham khảo thêm những thông tin hữu ích khác trong chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.
- Viết bài văn nhập vai nhân vật kể lại một câu chuyện cổ tích
- Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Vua chích chòe
- Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Cây khế lớp 6
--- Cập nhật: 14-03-2023 --- nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em từ website thuthuat.taimienphi.vn cho từ khoá kể lại một truyện cổ tích.
Đề bài: Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em
I. Kể lại truyện cổ tích Cây tre trăm đốt bằng lời văn của em
Nhắc tới những câu chuyện cổ tích em liên tưởng ngay tới những ông bụt, bà tiên, những vị thần trợ giúp người tốt trong lúc nguy nan cấp bách hay thống khổ. Một trong những truyện cổ tích em được đọc nhiều lần và nhớ rõ từng chi tiết chính là truyện Cây tre trăm đốt.
Câu chuyện Cây tre trăm đốt kể về một lão nhà giàu và một anh nông dân nghèo. Lão nhà giàu tuy sở hữu tiền nhưng lại rất keo kiệt, chỉ biết ăn của người, anh nông dân nghèo phải đi cày thuê ruộng cho lão nhưng lão lại ko muốn trả tiền liền nghĩ ra cách dỗ ngon dỗ ngọt anh chịu thương chịu khó cày bừa đủ ba năm sẽ gả con gái cho. Anh nông dân tính thực thà liền tin ngay, siêng năng làm lụng cả vụ lúa mùa tới vụ lúa chiêm, kiếm cho lão nhà giàu ko biết bao nhiêu là thóc lúa.
Tới hạn ba năm trôi qua, lão nhà giàu ko muốn gả con gái cho anh nông dân nên lừa anh đi chặt cây tre đủ 100 đốt về làm đũa cho cả làng ăn cỗ. Anh nông dân khờ tưởng cây tre trăm đốt sở hữu thật nên vào rừng chặt nhưng làm gì sở hữu cây tre nào đủ 100 đốt, may thay anh là người thực thà lại ăn ở tốt nên được trời thương, sở hữu một ông lão dạy anh đọc câu thần chú "khắc nhập, khắc xuất". Từ 100 đốt tre sở hữu thể liền thành một cây tre cao vút thẳng tắp, anh nông dân đã thành công sở hữu được cây tre đủ 100 đốt...(Còn tiếp)
II. Kể lại truyện cổ tích Tấm Cám bằng lời văn của em
Truyện cổ tích Tấm Cám chắc hẳn người nào cũng đã từng đọc hoặc nghe tới ít nhất một lần. Câu chuyện tuy sở hữu nhiều yếu tố hoang đường, ko sở hữu thật nhưng để lại cho chúng ta rất nhiều bài học vì thế vẫn được lưu truyền tới ngày hôm nay.
Tấm và Cám là hai chị em nhưng là cùng cha khác mẹ. Mẹ Cám chỉ biết quan tâm, lo lắng và chiều chuộng con gái mình, trái lại luôn hành tội, sai làm cho và chửi mắng Tấm, bắt Tấm làm mọi việc trong nhà. Cả buổi chiều Tấm hì hụi lội bùn bắt được một giỏ đầy tép lại bị Cám cướp trắng chỉ còn lại một chú cá bống nhỏ. Đó là con cá bống mà bụt ban cho Tấm, Tấm đem cá về nuôi dưới giếng, hàng ngày cho cá ăn.
Một hôm hai mẹ con Cám đã lừa tấm làm thịt cá bống vứt tro vào bếp. Nhờ sở hữu Bụt mà Tấm tìm được đống xương cá trong tro bếp sau đó bỏ vào bốn loại lọ chôn dưới chân giường. Ngày nọ, vua cho mở hội linh đình, người nào nấy đều sắm sửa đi trẩy hội, Tấm cũng muốn đi nhưng lại bị mụ mẹ kế bắt ở nhà. Lúc đấy bụt lại hiện lên, làm cho đàn chim sẻ nhặt thóc và gạo thành hai đống khác nhau lại còn biến hóa đống xương cá thành áo lụa, giày thêu, ngựa và yên cương đẹp đẽ...(Còn tiếp)
III. Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em
Ngày xưa sở hữu hai vợ chồng già, vừa nghèo lại chẳng sở hữu con, đấy vậy mà tới lúc chỉ uống nước từ loại sọ dừa mà lại mang thai, sinh ra một cậu con trai tròn y như trái dừa, ko tay ko chân, nhưng vẫn biết nói, liền đặt tên là Sọ Dừa.
Dù ko chân tay nhưng Sọ Dừa rất thông minh và ngoan ngoãn. Trong lúc đi chăn bò cho phú ông, nhân lúc ko sở hữu người Sọ Dừa lại trở lại hình dáng con người, thành một chàng trai tuấn tú tuấn tú, vừa chăn bò vừa thổi sáo rất hay. Nhà phú ông sở hữu ba cô con gái thì chỉ sở hữu cô út là thương và đối xử tử tế với Sọ Dừa, còn lại hai cô kia vì hình dáng kì lạ của Sọ Dừa nên thường hắt hủi.
Do một lần nhìn trộm nên cô út biết Sọ Dừa chính là chàng trai tuấn tú, hình dáng kì lạ kia chỉ là phép thử vì thế đem lòng yêu mến. Tới cuối mùa ở, Sọ Dừa hỏi cưới con gái phú ông, dù phú ông đòi lễ vật rất khó nhưng Sọ Dừa đều mang tới đủ cả và cưới được cô út. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống rất vui vẻ và hạnh phúc, cho tới lúc Sọ Dừa thi đỗ Trạng Nguyên phải đí sứ. Nhân lúc Sọ Dừa đi sứ, hai cô chị của cô út đã hãm hại em của mình nhằm thay thế muốn làm bà Trạng...(Còn tiếp)
IV. Kể lại truyện cổ tích Sự tích Hồ Ba Bể của em
Chuyện kể rằng, ngày xưa tại một ngôi làng nọ thuộc xã Năm Mẫu, tỉnh Bắc Cạn hằng năm thường tổ chức lễ cúng Phật cầu an lành và trợ giúp những người khổ cực. Họ luôn nói về chuyện làm phước, hành thiện trong cuộc sống.
Mọi người người nào nấy chuẩn bị đầy đủ, quần áo tươm tất, gọn ghẽ để đi lễ. Bỗng đâu xuất hiện một bà cụ xống áo rách rưới, người toả ra một mùi hôi khó chịu. Đi tới đâu, cụ cũng đưa loại bát nhỏ ra rồi thều thào: "Làm ơn, làm phước cứu tôi với, làm ơn thương tôi với". Nhưng ko một người nào trợ giúp, họ xa lánh, xua đuổi cụ làm cho cụ buồn rất nhiều. Trời sắp xế chiều mà cụ vẫn một mình thui thủi dọc đường. May mắn thay, sở hữu hai mẹ con bà goá đi lễ về thương tình mà giúp cụ, mời cụ về nhà qua đêm kẻo trời cũng sắp tối, đi giữa đường lại nguy hiểm. Mẹ con bà goá nhường chiếc giường nhỏ của mình cho cụ ngủ, cụ cảm động lắm, nhìn mẹ con bà goá bằng ánh mắt hiền từ rồi ân cần bảo: "Hai mẹ con tuy nghèo nhưng rất tốt bụng. Trời sẽ phù hộ cho hai người", rồi nằm xuống ngủ.
Trong đêm, mẹ con bà goá thấy chỗ bà cụ nằm là một con giao long to, sáng rực, dù sợ hãi nhưng ko dám la to, đành phó mặc cho số phận. Sáng hôm sau, mọi chuyện vẫn yên bình, bà lão dặn dò mẹ con bà goá: "Vùng này sắp sở hữu lụt to đấy, con cầm gói tro này rồi rắc xung quanh nhà để được an toàn". Nói rồi cụ đưa thêm hai miếng vỏ trấu mà rằng lúc nước dâng lên thì thả vỏ trấu xuống mà tìm cách cứu giúp mọi người...(Còn tiếp)
---------------HẾT--------------
https://thuthuat.taimienphi.vn/ke-lai-mot-truyen-co-tich-bang-loi-van-cua-em-65608n.aspx
Trên đây chúng tôi đã giới thiệu tới những em những bài văn mẫu Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em hay nhất, không những thế để mở rộng vốn hiểu biết và rèn luyện kĩ năng kể chuyện, những em sở hữu thể tham khảo thêm: Kể lại một truyền thuyết bằng lời văn của em, Tưởng tượng và kể lại câu chuyện cuộc sống của em ở 20 năm sau, Kể chuyện bà tiên cho ba điều ước trong giấc mơ, Kể một câu chuyện của em hoặc bạn bè về việc làm theo 5 điều Bác bỏ Hồ dạy.
--- Cập nhật: 17-03-2023 --- nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Văn mẫu lớp 6: Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích Dàn ý & 75 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất từ website download.vn cho từ khoá kể lại một truyện cổ tích.
Hôm nay, Download.vn muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích.
Tài liệu bao gồm những mẫu dàn ý và 75 bài văn mẫu lớp 6, nhằm giúp học trò biết cách kể lại một truyền thuyết hay cổ tích.
Kể lại một truyền thuyết - Sự tích Hồ Gươm
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết mổ giặc.
Hồi đấy, ở Thanh Hóa, sở hữu một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Tới lúc kéo lưới lên thấy nằng nặng, nghĩ rằng sẽ kéo được mẻ cá to. Nhưng lúc thò tay vào bắt cá thì chỉ thấy một thanh sắt. Chàng vứt xuống sông, rồi lại thả lưới ở chỗ khác. Kì lạ thay, liên tục ba lần đều vớt được thanh sắt nọ. Thận liền đưa thanh sắt lại mồi lửa thì phát hiện ra đó là một thanh gươm.
Về sau, Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Một lần nọ, chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng tới thăm nhà Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến tới sắp xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Song lại ko người nào nghĩ đó là lưỡi gươm thần.
Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và những tướng rút mỗi người một ngả. Lúc đi ngang qua một khu rừng, Lê Lợi thấy sở hữu ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một loại chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ tới lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.
Một năm trôi qua, nhờ sở hữu gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh tới đâu thắng tới đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy Rùa Vàng nổi lên đòi lại thanh gươm thần:
- Việc to đã thành. Xin đại vương trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Sau lúc nghe Rùa Vàng nói, Lê Lợi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Kể lại truyền thuyết - Con Rồng cháu Tiên
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ.
2. Thân bài
- Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương và trở thành vợ chồng.
- Âu Cơ sở hữu mang, sinh ra một loại bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con.
- Lạc Long Quân từ biệt Âu Cơ, đưa năm mươi con trở về biển.
- Âu Cơ đưa năm mươi con lên rừng. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương.
3. Kết bài
Tìm hiểu về truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên.
Bài mẫu tham khảo
Ngày xưa, sở hữu một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thần sở hữu sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, sở hữu nàng Âu Cơ thuộc dòng tộc Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng tới thăm vùng đất Lạc Việt sở hữu nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.
Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một loại bọc trăn trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều tuyệt vời, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ phủ.
Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng làm cho nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên thở than:
- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, ko cùng thiếp nuôi đàn con nít?
Lạc Long Quân nói:
- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được trong tương lai được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản những phương. Lúc sở hữu việc gì cần trợ giúp lẫn nhau, đừng quên lời hứa hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con loại.
Âu Cơ ưng thuận. Trước lúc đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:
- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.
Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:
- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta ko hề phai nhạt, lúc nào cần chúng ta lại gặp nhau.
Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:
- Thiếp rất nhớ chàng và thương những con, biết tới lúc nào chúng ta mới gặp nhau.
Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, yên ủi:
- Xa nàng và những con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và thông cảm cùng ta.
Âu Cơ và những con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.
Lạc Long Quân và những con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa những con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.
Kể lại truyền thuyết - Sơn Tinh, Thủy Tinh
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh.
2. Thân bài
- Vua Hùng Vương sở hữu con gái tên Mị Nương.
- Vua kén rể cho con gái.
- Sơn Tinh, Thủy Tinh tới tranh tài.
- Sơn Tinh tới trước lấy được Mị Nương.
- Thủy Tinh đánh Sơn Tinh.
3. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện: Hiện tượng lũ lụt.
Bài mẫu tham khảo
Hùng Vương thứ mười tám sở hữu một người con gái tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua rất mực yêu thương nên muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng.
Nghe tin nhà vua muốn kén rể, sở hữu hai chàng trai tới cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên sở hữu tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng ko hề thua kém: gọi gió gió tới, hô mưa mưa về. Tên của chàng là Thủy Tinh.
Cả hai người đều vô cùng xuất chúng nên vua Hùng ko biết chọn người nào. Vua bèn ra lệnh:
- Hai người đều vừa ý ta cả. Vậy nên nếu ngày mai người nào mang được sính nghi tới trước sẽ được rước dâu về. Sính nghi gồm sở hữu một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín lông hồng, mỗi thứ một vài.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật tới trước, lấy được Mị Nương. Thủy Tinh tới sau ko lấy được vợ liền nổi nóng, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung rinh cả đất trời. Nước ngập khắp những đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lều phều trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.
Hai bên đánh nhau ròng rã rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Từ đó càng thêm oán nặng thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều thua trận.
Kể lại truyền thuyết - Thánh Gióng
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Thánh Gióng.
2. Thân bài
- Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
- Giặc Ân tới xâm phạm lãnh thổ nước ta.
- Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ thần tìm người tài giỏi cứu nước.
- Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
- Chú bé vùng dậy, vươn vai một loại bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
- Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre bên đường đánh tan quân giặc.
- Thánh Gióng bay về trời.
3. Kết bài
Truyền thuyết thể hiện ý thức kết đoàn chống giặc cứu nước.
Bài mẫu tham khảo
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia sở hữu hai vợ chồng ông lão, siêng năng làm ăn lại sở hữu tiếng là phúc đức. Nhưng tới lúc sắp già mà vẫn chứa sở hữu lấy một mụn con.
Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng ko ngờ, khác với người thường, tới mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi tuấn tú. Cậu bé ra đời là niềm ước mong cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.
Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược lãnh thổ nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác làm cho nhân dân vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi tới đâu sứ thần cũng rao:
- Người nào sở hữu tài, sở hữu sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn chứa tiếng:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ thần vào đây cho con.
- Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ thần vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ thần về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.
Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ thần, cậu cứ to nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng ko no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà ko đủ bèn nhờ láng giềng cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng người nào cũng mong cậu đi giết mổ giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.
Giặc đã tới sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ thần mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị tới nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả nghìn người cùng lại, chẳng mấy chốc cậu đã làm cho lũ giặc kinh hồn khiếp đảm. Đang đánh nhau khốc liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị xoá sổ ko sót một tên.
Dẹp giặc xong, cậu Gióng ko quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa tới núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, lúc ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng đấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ tiếp nối nhau.
Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã ko chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.
Kể lại truyền thuyết - Bánh chưng, bánh giầy
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
Giới thiệu về thời kì, ko gian của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy: Đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã sở hữu tuổi nên muốn truyền ngôi cho con.
II. Thân bài
1. Điều kiện truyền ngôi của Vua Hùng
- Hoàn cảnh: Hùng Vương lúc về nhà, muốn truyền ngôi nhưng lại sở hữu tới hai mươi người con trai, ko biết chọn người nào cho xứng đáng
- Điều kiện: “Người nối ngôi ta phải nối được trí ta, ko nhất thiết phải là con trưởng.”
- Hình thức: Nhân lễ Tiên vương, người nào làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, sở hữu Tiên vương chứng giám.
2. Lang Liêu và những hoàng tử thi nhau tìm kiếm lễ vật dâng nhà vua
- Những lang đua nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon đem về lễ Tiên vương.
- Lang Liêu là con thứ mười tám; mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết. So với anh em, chàng thiệt thòi nhất.
- Lang Liêu nằm mơ, được thần mách nước bảo hãy sử dụng thứ gạo nếp thân thuộc làm thành lễ vật dâng vua cha.
- Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Cũng thứ gạo nếp đấy đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.
- Tới ngày lễ Tiên vương, những lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới, chẳng thiếu thứ gì.
- Nhà vua xem qua một lượt rồi ngừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại.
3. Ý nghĩa và phong tục làm bánh chưng bánh giầy
- Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, được đặt tên là bánh giầy.
- Bánh hình vuông tượng trưng cho đất nên được đặt tên là bánh chưng
- Lá bọc bên ngoài ngụ ý đùm bọc lẫn nhau giống với truyền thống thương người như thể thương thân của dân tộc ta.
- Tục lệ của dân tộc ta: Hàng năm, mỗi lúc Tết tới, bánh chưng bánh giầy là món ăn ko thể thiếu.
III. Kết bài
Ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
Bài mẫu tham khảo
Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong số những người con trai nên đã đưa ra điều kiện:
- Ko nhất định phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa ý vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi cho.
Những hoàng tử cho người đi tới khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ để đem về dâng lên vua cha.
Lang Liêu là con vua, nhưng lại sống giản dị quen với việc chăm lo đồng áng, trồng lúa trồng khoai. Mẹ của Lang Liêu trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, sau đó mất đi để lại một mình chàng. So với những anh em, chỉ sở hữu Lang Liêu là thiệt thòi nhất. Chàng ko biết lấy gì để dâng lên Tiên vương.
Một đêm nọ, Lang Liêu nằm mơ và được thần mách nước bảo rằng:
- Trong trời đất ko sở hữu gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Hãy lấy gạo mà làm bánh lễ Tiên vương.
Lúc tỉnh dậy biết mình được thần báo mộng. Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Và cũng thứ gạo nếp đấy, chàng đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông tượng trưng cho Trời đặt tên là bánh chưng, còn bánh hình tròn tượng trưng cho Đất đặt tên là bánh giầy.
Tới ngày hứa hẹn, những hoàng tử dâng lên biết bao của ngon vật lạ. Tới lượt Lang Liêu, chàng đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Kể từ đó, hằng năm, cứ mỗi lúc Tết tới, bánh chưng bánh giầy là món ăn ko thể thiếu.
Kể lại truyện cổ tích - Thạch Sanh
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu truyện cổ tích Thạch Sanh.
2. Thân bài
- Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
- Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.
- Thạch Sanh giết mổ chết chằn tinh, Lý Thông cướp công.
- Thạch Sanh sử dụng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
- Lúc nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Vua tìm ra sự thực, kết tội Lý Thông.
- Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu tới cầu hôn ko được, kéo sang đánh …
3. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện của truyện: “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.
Bài văn mẫu số 1
Ngày xửa ngày xưa, ở quận Cao Bình sở hữu hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa sở hữu một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.
Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời kì sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ sở hữu lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Tới lúc trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.
Thấy Thạch Sanh sở hữu sức khỏe, Lí Thông mới mon men gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng sở hữu một con chằn tinh hung hãn, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm đấy tới lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:
- Đêm nay tới lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu thương chịu khó đi thay cho anh một đêm, tới sáng lại về.
Thạch Sanh chẳng sở hữu chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm đấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên sở hữu một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Ko lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau lúc nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:
- Đó là con vật nuôi của vua, giết mổ nó là mang tội. Thôi hiện giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
Thạch Sanh ko mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân thời cơ đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.
Lại nói lúc đó, công chúa đã tới tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền sử dụng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Tới hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá to lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi tới cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh sử dụng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước lúc trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.
Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần c ông chúa sau lúc cứu thoát, trở về cũng thì bỗng ko nói, ko cười. Ngự y trong triều đều phải khoanh tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để giãi bày nỗi oan khúc. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh tới gặp, chàng kể hết mọi oan khúc. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử những nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa chứa lên đã làm cho quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi ko hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua ko sở hữu con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
Bài văn mẫu số 2
Xưa, ở quận Cao Bình sở hữu hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa sở hữu một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.
Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời kì sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ sở hữu lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Tới lúc trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.
Thấy Thạch Sanh sở hữu sức khỏe, Lí Thông mới mon men gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng sở hữu một con chằn tinh hung hãn, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm đấy tới lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:
- Đêm nay tới lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu thương chịu khó đi thay cho anh một đêm, tới sáng lại về.
Thạch Sanh chẳng sở hữu chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm đấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên sở hữu một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Ko lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau lúc nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:
- Đó là con vật nuôi của vua, giết mổ nó là mang tội. Thôi hiện giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
Thạch Sanh ko mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân thời cơ đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.
Lại nói lúc đó, công chúa đã tới tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền sử dụng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Tới hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá to lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi tới cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh sử dụng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước lúc trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.
Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần công chúa sau lúc cứu thoát, trở về cũng thì bỗng ko nói, ko cười. Ngự y trong triều đều phải khoanh tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để giãi bày nỗi oan khúc. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh tới gặp, chàng kể hết mọi oan khúc. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử những nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa chứa lên đã làm cho quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi ko hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua ko sở hữu con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
Kể lại truyện cổ tích - Sọ Dừa
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kì lạ của mẹ Sọ Dừa.
2. Thân bài
- Hình thù kì dị của Sọ Dừa.
- Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
- Cô út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
- Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
- Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út.
- Sọ Dừa đi thi.
- Cô út bị hai cô chị hãm hại.
3. Kết bài
Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, sở hữu hai vợ chồng nông dân hiền lành, siêng năng nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa sở hữu con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá ko tìm thấy suối. Bà nhìn thấy loại sọ dừa kế bên gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì sở hữu mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé ko chân ko tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé chứa tiếng nói:
- Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà lão giữ lại nuôi. S au lúc to lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông sở hữu ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ sở hữu cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ tới phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe sở hữu tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa ko phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, sở hữu thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ tới hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành tới nhà phú ông hỏi cưới. Phù ông nghe bà lão nói thì cười to rồi nói:
- Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Tới ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, ko người nào thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú tuấn tú đứng bên cô út. Người nào nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành siêng năng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời kì đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt trộng vào bụng. Sẵn sở hữu con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ sở hữu những thiết bị mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.
Một hôm, sở hữu chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng ko cho người nào biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ tiếc thương lắm. Quan trạng ko nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ, sở hữu hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ siêng năng, tốt bụng nhưng ngoài năm mươi rồi vẫn chưa sở hữu con.
Một lần nọ, người vợ vào rừng lấy củi cho nhà chủ, trời nắng mà khát nước quá, ko tìm thấy suối. Bà nhìn thấy loại sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, liền bưng lên uống. Về nhà thì sở hữu mang.
Ít lâu sau, người chống mất. Bà sinh ra một đứa bé ko chân, ko tay, cứ tròn như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Thương con, bà để lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa.
Tới lúc to lên, Sọ Dừa chẳng khác lúc nhỏ là bao, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì.
Một hôm, bà mẹ than phiền:
- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.
Nghe vậy, Sọ Dừa liền nói:
- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói vậy, bà tới thưa chuyện. Phú ông tỏ ra ngần ngại lắm, chẳng biết Sọ Dừa sở hữu chăn nổi bò. Nhưng nghĩ tới việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông liền đồng ý.
Sọ Dừa tới ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con nấy đều no căng béo tốt. Phú ông mừng lắm. Tới ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba cô con gái của phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Nhưng hai cô chị luôn tỏ ra cay nghiệt, chỉ sở hữu cô út là đối xử tử tế.
Một hôm, cô út mang cơm, tới chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo. Cô thấy lạ, liền rón rén bước lại sắp thì thấy một chàng trai tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Lúc nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Cứ nhiều lần tương tự, cô út biết Sọ Dừa ko phải người trần, đem lòng yêu mến.
Hết mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ tới hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ ngạc nhiên lắm, nhưng thấy con năn nỉ nên đành hài lòng. Bà chuẩn bị sính nghi, rồi tới nhà phú ông thưa chuyện. Nghe xong, phú ông tỏ ra khinh bỉ.
- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà mẹ buồn bã trở về nói với Sọ Dừa, cứ nghĩ con sẽ từ bỏ hẳn việc lấy vợ. Ko ngờ, chàng lại bảo mẹ sẽ chuẩn bị đầy đủ những thứ đó. Đúng ngày hứa hẹn, bà mẹ ngạc nhiên lúc thấy trong nhà sở hữu bao nhiêu là sính nghi, ko thiếu thứ gì. Lại còn cả chục mĩ nhân chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế là phú ông phải nói với bà:
- Để ta hỏi xem sở hữu đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa ko đã!
Lão gọi ba cô con gái ra, hai cô chị bĩu môi khinh thường, còn cô út thì đồng ý. Vậy là phú ông đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.
Ngày cưới diễn ra, nhà Sọ Dừa bày cỗ linh đình. Lúc rước dâu, ko người nào thấy Sọ Dừa đâu cả. Bỗng một chàng trai tuấn tú tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều mừng rỡ, chỉ sở hữu hai cô chị là ghen tức lắm.
Vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Ngày ngày, Sọ Dừa đều siêng năng đèn sách. Chẳng bao lâu, chàng đã đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước lúc chia tay, quan trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng lúc sử dụng tới.
Hai cô chị vốn đem lòng ghen ghét, nay thấy quan trạng đi vắng, liền bày mưu hãm hại em gái. Họ sang nhà, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình nuốt cô em vào bụng. Nhưng sẵn sở hữu con dao, cô em đâm chết cá, xác cá nổi lều phều trên mặt biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô khoét bụng cá để ra ngoài, lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau, bật lửa lên, rồi xẻo thịt cá nướng ăn, sống qua ngày. Hai quả trứng nở thành đôi gà, làm bạn với cô.
Một hôm sở hữu chiếc thuyền ngang qua. Con gà trống nhìn thấy, gáy to ba lần:
- Ó… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau mừng lắm, trở về nhà cho mở tiệc linh đình. Nhưng quan trạng lại giấu vợ đi.
Hai cô chị ko biết gì, mừng thầm vì sắp được thay cô em làm bà trạng. Họ thay nhau kể chuyện em gái gặp nạn, khóc lóc tiếc thương. Tới lúc tiệc xong, quan trạng cho gọi vợ ra. Hai người chị xấu hổ trốn đi biệt tích.
Kể lại truyện cổ tích - Em bé thông minh
Ngày xưa, sở hữu ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi tới một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền tới gấn.
Viên quan hỏi cha tôi: “Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”
Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi nhưng nghe ông quan hỏi thề thì hỏi vặn lại quan rằng: “Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường”
Viên quan há hốc mồm sửng sốt ko biết trả lời ra sao. Viên quan mừng thầm, nghĩ người ta đây rồi. Ông hỏi hai cha con họ tên tuổi, làng xã quê quán rồi phi ngựa đi thẳng.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu đấy đẻ thành chín con, hứa hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu ko thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, em bé xin cha tôi thưa với dân làng giết mổ thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng mồm. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh toan tính việc của làng.
Làng ngờ vực bắt cha con họ viết giấy đoan mới đám ngả trâu đánh chén. Mấy hôm sau thì cả hai cha con lên đường vào kinh. Tới hoàng cung, cậu bé bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhè lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu cậu vào, phán hỏi: “Thằng bé kia, mày sở hữu việc gì? Sao lại tới đây mà khóc?”.
Lúc đó, em bé vờ vĩnh đáp: “Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con ko chịu đẻ em bé để chơi với con cho sở hữu bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ”.
Nghe cậu bé nói thế, vua và những triều thần đều bật cười. Vua lại phán: “Mày muốn sở hữu em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!”
Lúc đó, với vẻ mặt tươi tĩnh, cậu bé thưa với vua: “Thế sao làng chúng con lại sở hữu lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”
Lúc đó, vua cười và bảo: “Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày ko biết đem trâu đấy ra thịt mà ăn với nhau à?”
Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.
Một hôm, lúc hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng sở hữu sứ thần nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu liền nhờ cha tôi lấy một cây kim và tôi đưa cho sứ thần loại kim đó rồi nói: “Ông cầm loại kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim”. Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu.
Hồi đó, sở hữu một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta sở hữu nhân tài hay ko, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một loại vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Những đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người sử dụng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời kì tìm người giải câu đố.
Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì sở hữu chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói ngọn nguồn câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...”
Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời tôi nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách tiện dụng. Nghe nói, sứ thần nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.
Kể lại truyện cổ tích - Cây khế
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ sở hữu hai anh em. Cha mẹ mất sớm, anh em rất mực yêu thương nhau, cùng nhau làm lụng nên cũng sở hữu của ăn, của để. Nhưng từ lúc sở hữu vợ, người anh đâm ra lười biếng.
Một hôm, người anh gọi em trai tới để phân chia gia sản. Người anh nhận hết của nả, chỉ để lại cho em một túp lều tranh, trước lều sở hữu một cây khế. Quanh năm, vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế tươi tốt. Tới mùa khế ra rất nhiều quả. Người em bàn với vợ sẽ hái khế để đem ra chợ bán. Hôm đó, lúc người em vừa định trèo lên cây thì đã nhìn thấy trên cây khế sở hữu một con chim rất to đang đậu trên cây và đang ăn khế. Suốt một tháng, chim đều tới ăn. Người vợ xót ruột liền tới nói với chim:
- Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?
Chim bỗng ngừng ăn và chứa tiếng trả lời:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng.
Nói rồi chim bay đi. Vợ chồng bàn nhau làm theo lời chim nói. Sáng hôm sau, chim tới thật và đưa người em tới một hòn đảo giữa biển. Chim đáp xuống một cửa hang. Bên trong sở hữu rất nhiều vàng bạc châu báu. Thấy hang sâu và tối, người em chỉ dám nhặt ít châu báu ở ngoài, rồi ra hiệu cho chim ra về.
Từ đó, cuộc sống của gia đình của người em trở nên sung túc. Họ cho dựng một căn nhà khang trang sắp túp lều và cây khế và trợ giúp người dân nghèo khổ. Tiếng lành đồn xa, chuyện tới tai người anh. Một sáng, người anh tới nhà em trai từ sớm. Anh ta liền mon men hỏi chuyện, rồi gạ để đổi lấy túp lều và cây khế.
Cả gia đình người anh chuyển tới túp lều tranh của em trai. Ngày nào, vợ chồng người anh cũng chỉ ăn rồi ra dưới gốc khế chờ chim thần tới. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, cả hai đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết. Chim thần cũng nói y như lời kể của người em. Người anh bảo vợ may hẳn chiếc túi gấp ba lần, thành ra như một loại tay nải to.
Sáng hôm sau, chim thần tới đưa người anh ra tới đảo. Anh ta hoa mắt lúc thấy nhiều vàng bạc châu báu. Vào trong hang, người anh lại càng mê mẩn, cố sức nhét thật đầy.
Người anh leo lên lưng chim, chim là đà mãi mới chứa cánh được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Mang nặng, bay ngược gió, chim yếu dần, hai cánh rũ xuống. Tai nải bật mạnh vào cánh chim. Chim buông xuôi rồi đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn đi. Còn chim chỉ bị ướt lông ướt cánh, lại vùng lên bay về núi rừng.