Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy

Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy

[alert style=”danger”]

Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy

Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là bài học cảnh giác đối với quân thù, đồng thời giảng giải nguyên nhân của việc mất nước Âu Lạc trong lịch sử.

[/alert]

Ngày xưa ở nước ta sở hữu một ông vua tên là An Dương Vương xây một chiếc thành. Thành dày hơn nghìn trượng, hình tròn xoáy ốc, gọi là Loa thành. Nhân dân tốn bao nhiêu công phu xây đắp tường dày, nền vững, nhưng cứ sắp xong là thành bị lật đổ ngả nghiêng, đất đá tứ tung bùn lầy bừa bãi, nhà vua lấy làm buồn bã.

Một hôm, An Dương Vương ngồi chơi trên bờ sông, bỗng thấy mặt sông nổi sóng. Một con rùa vàng to to hiện lên, vái nhà vua mà nói:

– Ta là thần Kim Quy, sứ thần dưới sông đây! Ta sẽ giúp nhà vua diệt trừ yêu quái, tự khắc thành sẽ đắp xong.

Quả nhiên, ba tháng sau, Loa thành xây xong.

Thần Kim Quy cho An Dương Vương một chiếc móng chân để làm lẫy nỏ và dặn chăm chút”

– Lẫy nỏ này sở hữu phép lạ. Một phát sở hữu thể làm thịt chết hàng nghìn người. Nhà vua phải hết sức giữ bí mật.

Mị Châu – Trọng Thủy

Nói xong, thần Kim Quy từ tạ xuống sông.

An Dương Vương mừng lắm. Con gái Mị Châu trông thấy liền hỏi. Nhà vua chiều con, nói cả cho con nghe.

Bấy giờ, Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải. Mấy lần Đà đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng thất bại vì An Dương Vương sở hữu nỏ thần. Chỉ ba phát tên của vua Âu Lạc đã xoá sổ hết hàng vạn quân. Triệu Đà đành xin giảng hòa.

Đà dò xét, biết vua sở hữu con gái là Mị Châu, bèn hỏi cho con trai mình là Trọng Thủy. An Dương Vương ưng ý. Đà xin để cho con ở rể. Đó là mưu mô của họ Triệu sai con đánh cắp nỏ thần.

Một đêm trăng sao vằng vặc, Mị Châu cùng Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau trò truyện. Trọng Thủy hỏi vợ rằng:

– Nàng ơi, bên Âu Lạc sở hữu phương pháp gì mà ko người nào đánh được?

Mị Châu đáp:

– Sở hữu phương pháp gì đâu chàng! Âu Lạc đã sở hữu thành cao, lại sở hữu chiếc nỏ thần, như thế còn người nào đánh nổi!

Trọng Thủy tỏ vẻ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói nỏ thần lần này là lần đầu và đòi xem chiếc nỏ. Mị Châu ko ngần ngại, chạy ngay vào chỗ cha nằm, lấy nỏ đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chồng biết chiếc lẫy của Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy rõ cách bắn.

Article post on: nongdanmo.com

Sau đó, Trọng Thủy về thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai làm một chiếc nỏ giả y hệt như nỏ thần. Trọng Thủy giắt vào trong áo rồi lại trở về Âu Lạc. Trong một bữa tiệc, thừa cơ An Dương Vương mà Mị Châu say rượu, Trọng Thủy vào buồng đánh cắp nỏ thần, thay nỏ giả vào chỗ nỏ thần.

Sáng hôm sau, Trọng Thủy lại từ biệt Mị Châu. Trọng Thủy nói:

– Ta sắp phải đi xa. Đôi ta phải chia ly ít bữa. Ở nhà, ngộ sở hữu giặc giã, ta biết làm thế nào thế nào tìm được nàng?

Mị Châu rầu rĩ đáp:

– Thiếp sở hữu chiếc áo lông ngỗng. Hễ thiếp chạy về đâu, thiếp sẽ rút lông ngỗng rắc dọc đường, chàng theo đó mà tìm.

Triệu Đà đem quan đánh An Dương Vương. Nhà vua cậy sở hữu nỏ thần ko dự phòng gì cả. Mãi lúc quân giặc tới sát thực tâm, An Dương Vương mới sa đem nỏ thần ra bắn, nhưng ko trúng như mọi lần nữa. Nhà vua bèn cùng Mị Châu lên ngựa chạy trốn.

Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy

Tới núi Mộ Dạ (nay thuộc Diễn Châu, Nghệ An) sắp bờ biển, bỗng thần Kim Quy hiện lên và bảo:

– Giặc ngồi sau lưng mà nhà vua ko biết!

An Dương Vương nổi nóng, rút gươm chém Mị Châu, rồi nhảy xuống biển tự tử.

Source: nongdanmo.com

Quân Nam Hải chiếm được thành Cổ Loa. Trọng Thủy lần theo dấu lông ngỗng tìm thấy xác vợ. Trọng Thủy khóc òa lên, nhặt xác vợ đem chôn và nhảu xuống giếng tự tử.

Ngày nay, ở làng Cổ Loa sở hữu đền thờ An Dương Vương. Tương truyền lúc Mị Châu chết, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn phải nên mới sở hữu ngọc trân châu. Lấy nước giếng trong thành Cổ Loa rửa ngọc thì ngọc sáng vô cùng.

Truyện truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
Nguồn: Chuyện nỏ thần, trang 53, SGK tập đọc lớp 3, NXB Giáo dục – 1958

[alert style=”danger”]

[/alert]

An Dương Vương Thục Phán là người nào?

Theo những nguồn tư liệu thư tịch cổ của ta và của Trung Quốc thích hợp với những truyền thuyết dân gian phổ biến cho phép ghi nhận An Dương Vương Thục Phán là một nhân vật lịch sử sở hữu thật.

Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn tồn tại nhiều vấn đề chưa được khắc phục triệt để, đó là nguồn gốc lịch sử về An Dương Vương và sự thành lập nước Âu Lạc.

Những tài liệu xưa nhất trong thư tịch cổ của Trung Quốc như Giao Châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký… đều chép, An Dương Vương là “con vua Thục” (Thục Vương Tử), nhưng ko cho biết rõ nguồn gốc xuất xứ của vua Thục, vị trí của nước Thục và cả tên của An Dương Vương.

Via @: nongdanmo.com

Theo Việt Nam sử lược dựa vào Việt sử thông giám cương mục, cho rằng An Dương Vương Thục Phán “ko phải nhà Thục bên Tàu”. Ngô Tất Tố thì phân tích sâu hơn những luận cứ, khẳng định “Nước Nam ko sở hữu ông An Dương Vương nhà Thục”.

Vào những năm 50, thuyết cựu truyền về nguồn gốc Ba Thục của An Dương Vương vẫn được nhiều nhà sử học bảo vệ, nhưng với những cách giảng giải mới.

Sở hữu nhà nghiên cứu cho rằng, sau lúc nước Thục bị quân Tần diệt, con cháu vua Thục từ đất Ba Thục tiến xuống phía nam ẩn náu, rồi dần dà vào đất Việt, lập nên nước Âu Lạc với triều Thục An Dương Vương, tồn tại khoảng 5 năm từ 210 tới năm 206 tr.CN.

Một số nghiên cứu khác cho biết Thục Phán sở hữu thể là con hay cháu xa của nhà Thục ở Ba Thục, sau lúc quốc gia bị diệt, đã cùng với tộc thuộc, chạy xuống vùng Điền Trị, rồi theo sông Hồng vào đất Lạc Việt, chiếm vùng Tây Vu ở phía Tây bắc trung du Bắc Bộ ngày nay. Sau lúc lãnh đạo người Lạc Việt và Tây Âu kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, Thục Phán gồm chiếm nước Văn Lang của Hùng Vương lập ra nước Âu Lạc vào khoảng năm 208 tr.CN.

Cũng sở hữu nhà nghiên cứu căn cứ vào tình hình phân bố cư dân vùng Tây Nam Di, phỏng đoán rằng, Thục Vương trong những thư tịch cổ ko phải vua nước Thục ở Ba Thục, mà là tù trưởng của bộ lạc Khương thiên cư từ đất Thục xuống phía nam và tự xưng là Thục Vương. Bộ lạc Thục đó đi xuống vùng Quảng Tây và đông bắc Bắc Bộ, quần tụ và đồng hóa với người Tây Âu ở vùng này (nước Âu Lạc lúc đó bao gồm hai thành phần cư dân: Lạc Việt và Tây Âu).

Rất nhiều những học giả đều cho rằng, Thục Phán là người nước ngoài, xâm lược nước Văn Lang. Nhưng trong ký ức và tình cảm lâu đời của nhân dân ta được phản ánh trong những thần tích, ngọc phả, trong những nghi tiết thờ cúng, diễn xướng dân gian… thì An Dương Vương Thục Phán hoàn toàn ko phải là quân thù, mà là một người sở hữu công dựng nước và giữ nước, một anh hùng được tôn kính. Nếu 10 tháng 3 (âm lịch) là ngày giỗ tổ Hùng Vương thì ngày 6 tháng 1 (Âm lịch) cũng là một ngày hội to ở đền Vua Thục tại Cổ Loa:

“Chết thì bỏ con bỏ cháu,
Sống thì ko bỏ mồng sáu tháng Giêng”.

An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là gì?

Hiện nay, sở hữu rất nhiều bạn nhầm lẫn lịch sử, hay hỏi An Dương Vương là vua Hùng thứ mấy. Lịch sử Việt Nam trải qua 18 đời vua Hùng. An Dương Vương đã mang quân đánh chiếm nhà nước Văn Lang của Hùng Duệ vương và lập ra nhà nước Âu Lạc. Nhưng vì nhà nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong thời kì rất ngắn, cho nên đời Hùng Vương – An Dương Vương hay được nhắc tới cùng nhau.

Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy kể trên chỉ là câu truyện lý hương nguyên nhân An Dương Vương thất bại. Thực tế do Triệu Đà đã biết sử dụng mưu kế, lấy quân lực uy hiếp biên cảnh, lấy của nả hối lộ, khiến cho Mân Việt và Tây Âu Lạc thần phục, đồng thời gây bất hòa, chia rẽ trong nội bộ vua tôi triều Thục. Nhiều tướng giỏi như Cao Lỗ, Nồi Hầu, Đinh Toán…bị ngược đãi, bị làm thịt hại hay phải bỏ đi.

Sở hữu một số tài liệu còn cho rằng, nhân vì tổ phụ ngày trước cầu hôn lấy Mị Nương là con gái Hùng Vương nhưng ko được gả nên mang oán. Sau này Thục Phán mới cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang. Truyền thuyết Việt Nam kể rằng, Mị Nương được vua Hùng gả cho thần núi Tản Viên Sơn Tinh. Tham khảo truyện truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh để hiểu rõ hơn.

Nước Âu Lạc chỉ tồn tại được trong thời kì rất ngắn, sau bị Triệu Đà chinh phục. Triệu Đà sáp nhập đất đai Âu Lạc vào phạm vi quốc gia Nam Việt của mình và quy thuận nhà Tần, mở ra thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hàng nghìn năm, đúng như nhà sử học Ngô Thì Sĩ nhận xét: “Nước ta bị nội thuộc Trung Hoa từ Hán tới Đường, truy nguyên thủ họa chính là Triệu Đà”.

Thành Cổ Loa – Di tích lịch sử trong truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ

Sau lúc thành lập nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) làm kinh đô và xây dựng ở đó một tòa thành to. Đấy là thành Cổ Loa, trung tâm của nước Âu Lạc đời An Dương Vương.

Cổ Loa nằm ở vùng đồng bằng giáp trung du của lưu vực sông Hồng, trên bờ bắc Hoàng Giang. Ngày nay, Hoàng Giang chỉ là một đoạn sông đã bị bồi lấp và được cải tạo thành một kênh thủy nông. Nhưng theo những tài liệu địa lý học lịch sử thì xưa kia, Hoàng Giang là một con sông to nối liền sông Hồng với sông Cầu ở Quả Cảm – Thổ Hà. Trên bản đồ và thực địa, dấu vết của dòng sông cũ còn rõ nét với những đoạn gọi là sông Thiếp hay Ngũ Quận Khê ( chảy qua 5 quận: Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngân, Yên Phong, Tiên Du).

Thành Cổ Loa hiện nay còn giữ được một quần thể di tích lịch sử văn hoá lâu đời gồm đền thờ An Dương Vương, am thờ công chúa Mị Châu và giếng Ngọc (tương truyền đó là nơi Trọng Thuỷ tự vẫn sau chiếc chết của Mị Châu). Bao quanh cụm đền, am là từng đoạn của vòng thành cổ chạy dài trên cánh đồng – dấu vết còn lại của thành Cổ Loa chín vòng do An Dương Vương xây nên.

Toàn bộ cụm di tích là minh chứng lịch sử cho sự thông minh và lưu truyền chuỗi truyền thuyết về sự ra đời và suy vọng của nhà nước Âu Lạc. Trong chuỗi truyền thuyết đó, vượt bậc hai lớp truyện chính: một là kể về quá trình An Dương Vương xây thành và chế tạo nỏ thần thành công nhờ sự trợ giúp của thần Rùa Vàng, hai là kể về nguyên nhân khiến cho cơ đồ nhà nước Âu Lạc “đắm biển sâu” liên quan tới truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ.

Article post on: nongdanmo.com

Recommended For You

About the Author: Bảo