
Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Tràng trong bài Vợ Nhặt ngắn gọn nhất. Tuyển tập những bài văn Cảm nhận nhân vật Tràng bài Vợ Nhặt hay nhất
Giới thiệu về tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt
Với truyện ngắn Làng nói riêng hay những tác phẩm văn học khác nói chung, để thấy được trị giá nội dung và nghệ thuật cũng như nội dung mà nhà văn muốn truyền tải, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả và tác phẩm. Trước lúc cảm nhận về nhân vật Tràng thì chúng ta hãy tìm hiểu về tác giả, tác phẩm nhé
Đôi nét về nhà văn Kim Lân
Kim Lân sinh năm 1920, mất năm 2007. Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Năm 1944, Kim Lân tham gia hội văn hóa cứu quốc, sau đó ông lại liên tục hoạt động văn nghệ để phục vụ kháng chiến.
Kim Lân tuy ko sáng tác nhiều nhưng mỗi tác phẩm của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, ghi dấu ấn trên văn đàn. Trước cách mệnh tháng tám, Kim Lân chủ yếu viết về cuộc sống hiện tại tiêu điều u ám của nông thôn Việt Nam nhưng đồng thời ông cũng tái tạo lại những nét sinh hoạt văn hóa phong phú. Từ đó, ông thể hiện vẻ đẹp nội tâm của người nông dân trước cách mệnh tuy sống trong đói khổ nhưng vẫn yêu đời vẫn giữ được vẻ đẹp của mình.
Sáng tác của Kim Lân trong giai đoạn này với thể kể tới Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Đôi chim thành, Con mã nhái, Chó săn,… Sau cách mệnh tháng tám, ông tiếp tục làm báo viết văn. Tác phẩm phải kể tới trong giai đoạn này là những tập truyện ngắn Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962). Năm 2001, ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Tìm hiểu về truyện ngắn Vợ nhặt
Truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tác phẩm này với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau lúc cách mệnh tháng Tám thành công. Tiểu thuyết Xóm ngụ cư lấy bối cảnh nạn đói 1945 nhưng sau đó bị lạc mất bản thảo. Năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên tác phẩm hoàn chỉnh như hiện tại.
Trong quá trình cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác giả đã gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Bởi lẽ, cưới vợ vốn là một việc trọng đại trong đời người, được tiến hành một cách thận trọng trang nghiêm. Đối lứa tới với nhau thường thông qua một quá trình tìm hiểu kỹ càng hay với sự mai mối. Vậy mà, ở đây lại là nhặt vợ.
Nhặt thường gợi ra việc vô tình nhặt được một cách thuận tiện, thường là những thứ nhỏ nhoi ko với trị giá. Sở hữu người nào với thể tưởng tượng được vợ cũng với thể nhặt được như nhặt rơm nhặt rác bên đường. Nhan đề “Vợ nhặt” đã phần nào nói lên thân phận rẻ rúng bọt bèo của người phụ nữ trong hoàn cảnh xã hội đương thời – nạn đói 1945.
Truyện kể về một gia đình nghèo trong nạn đói 1945. Tràng là một thanh niên chưa vợ, sống cùng mẹ ở xóm ngụ cư. Trong lúc dòng đói đang diễn ra, thì Tràng lại dắt thêm một người phụ nữ về nhà làm vợ. Trước tình cảnh đó, ko chỉ người dân xóm ngụ cư mặc cả mẹ Tràng là bà cụ Tứ cũng rất ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng với tấm lòng thông cảm sâu sắc, mẹ Tràng đã đồng ý. Và họ khởi đầu xây dựng một cuộc sống mới với niềm tin kỳ vọng về tương lai.
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Tràng trong bài vợ Nhặt
Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn giỏi, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
Thân bài
Hoàn cảnh
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống cập kênh, ...
- Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to to vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về về, ...
Tâm trạng và hành động
Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ ko với ý tình gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Lúc bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét mồm và mời cô ta ăn dù ko dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Lúc người nữ giới quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm mồm ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây ko phải quyết định của kẻ xốc nổi mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng hoàn cảnh.
+ Đưa người nữ giới lên chợ tỉnh tậu đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
Trên phố về:
+ Vẻ mặt “với dòng gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự túc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
+ Sắm dầu về thắp để lúc thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
Lúc về tới nhà:
+ Xăm xăm bước vào thu dọn sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của nữ giới. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Lúc bà cụ Tứ chưa về, Tràng với cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia đạo quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột trông chờ bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ tới quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Lúc bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ xây dựng. Lúc bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
Sáng hôm sau lúc tỉnh dậy:
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhìn thấy vai trò và vị trí của người nữ giới trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phất phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ lúc nhặt được vợ nhân vật đã với sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ngợi ca vẻ đẹp của những con người trong dòng đói.
III. Kết bài
- Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
- Khái quát trị giá nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống ngang trái, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, tiếng nói bình dị, sắp gũi.
- Tác phẩm chứa đựng trị giá nhân đạo sâu sắc, phản ánh trung thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh thực chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong bài Vợ Nhặt
Nhà văn Nga I.Bônđarep từng với ý tưởng rằng “Nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột”. Ý kiến này quả đúng lúc bàn về truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với tác phẩm Vợ Nhặt nhà văn đã làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sinh động về hiện thực thê thảm đó và lạ thay, giữa khoảng trống lay lắt,tối tăm của cuộc sống nghèo đói nhà văn đã cho ta thấy được tấm lòng của những con người đói khổ dù đang bị dòng đói, dòng chết rình rập nhưng họ vẫn cưu mang, đùm bọc, yêu thương và san sẻ, cùng hướng về sự sống, về hạnh phúc và tương lai. Nó được thể hiện như thế nào qua hình tượng nhân vật Tràng?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết ko lâu sau nạn đói kinh khủng năm 1945. Nhà văn đã tái tạo lại thời khắc lịch sử kinh rợn thê lương, nó hòa nhập giữa cõi âm và thế gian , giữa sự sống và dòng chết , giữa người và ma. Tất cả hình ảnh, âm thanh, con người hiện lên đều rất trung thực, ko một tẹo thổi phồng. Qua truyện ngắn, người đọc mang đầy đủ những xúc cảm vừa độc đáo, ngang trái lại đầy cảm động và tin yêu. Đi sâu vào nhân vật Tràng ta sẽ thấy tất cả hiện thực và nhân đạo mà tác giả gửi gắm.
Nhắc tới Tràng là nhắc tới nhân vật được hóa công mài giũa quá sơ sài. Tràng- nhân vật chính của truyện được Kim Lân cho xuất hiện trên nền của dòng đói với bóng người “xanh xám như những bóng ma”, người sống “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Tràng với dòng tên đặc trưng, một thứ đồ của thợ mộc- dòng tràng. Anh được ngòi bút Kim Lân vẽ sơ sài với “hai con mắt gà gà, nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, mặt thì thô kệch, thân hình “vập vạp”. Ko những vậy tới nơi ở của anh thì cành dong rấp cổng, tấm phên rách che nhà, mảnh vườn lổn nhổn là cỏ dại. Hơn hết, Tràng lại là dân ngụ cư, một loại người mà lúc bấy giờ bị ruồng bỏ như một thứ cỏ rác của hương thôn. Rõ ràng, trong hoàn cảnh đó Tràng chỉ với thể cùng mẹ già nương tựa nhau qua nạn đói mà khó với thể lấy một cô vợ.
Mang ngoại hình thô kệch, xấu xí nhưng Tràng với trái tim nhân hậu, phóng khoáng. Bản thân dù đói nhưng ko ngần ngại bỏ tiền mời người nữ giới hai bát bánh đúc. Anh vui vẻ đưa ba câu hò trêu chọc mà cô Thị sẵn sàng theo về làm vợ. Tràng với vợ, như một anh chàng tốt số đào hoa, chỉ buông đôi lời ve vãn mà đã với cô nàng vội vã theo ko. Giữa cảnh trời đất tối sầm vì đói khát, những ngày nghèo đói, song đường phận bọt bèo đã dạt tới với nhau vì khát vọng hạnh phúc lứa đôi, vì mong khá ấm gia đình. Dẫn người vợ nhặt về nhà, Tràng ngổn ngang những suy nghĩ thời buổi này còn đèo bòng, ko biết nuôi nổi ko rồi lại tặc lưỡi cho qua và gương mặt hiện rõ niềm vui. Trong tác phẩm, hơn một lần nhà văn nói về hạnh phúc, nụ cười của Tràng từ e lệ cười tủm tỉm tới bật cười đầy thỏa mãn, lúc thì hai mắt sáng lên nhóng nhánh, với lúc mặt vênh lên tự túc với mình. Nhịn nhường như anh quên hết cảnh sống ê chề hàng ngày, quên cả đói khát gớm ghê đang rình rập.
Từ lúc với vợ, Tràng nhìn thấy trách nhiệm của bản thân với gia đình. Anh biết chăm lo cho đêm tân hôn với chút dầu đèn cho sáng sủa để hạnh phúc ko tối xùm trong hoàn cảnh bi đát. Ta thấy Tràng hết sức trân trọng hạnh phúc của mình. Đặc trưng trong buổi sáng trước tiên lúc đã nên vợ nên chồng, nhìn người vợ mới quét dọn sân nhà, Tràng cảm thấy ngập tràn niềm yêu thương và thấy bản thân như “to hẳn”, cũng như trách nhiệm cùng to dần lên.
Trong bữa cơm trước tiên, Tràng nghe chuyện vui mẹ kể về tương lai, biết được việc nhân dân phá kho thóc Nhật và lúc đó hình ảnh lá cờ đỏ bỗng phất phới trong óc Tràng. Đây ko phải một ước mơ viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà nó cơ sở vật chất hiện thực, chính nhà văn đã nhìn thấy mà mở ra cho nhân vật của mình một hướng đi. Rõ ràng, Tràng đã với được hạnh phúc gia đình, với khá ấm của tình thương. Qủa đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo nó làm cho con người được sống là chính mình, được nên người.
Tràng cũng chính là chân dung của những người lao động sống trong nạn đói kinh khủng năm Ất Dậu. Họ nghèo mà ko hèn, nghèo bạc chứ ko nghèo tình. Họ luôn sống với nhau bằng chữ “tình”, bằng thực tâm, bằng yêu thương, san sẻ và đùm bọc. Con người là tượng trưng của kỳ vọng, lạc quan, hướng về ánh sáng, nhìn tới tương lai và tin tưởng tuyệt đối vào Cách mệnh.
Những bài viết liên quan:
- Soạn bài: Vợ nhặt (Hay nhất)
- Soạn bài: Vợ nhặt (ngắn nhất)