Cảm nhận của em về đoạn trích Trao Duyên của Nguyễn Du

Đề bài: Cảm nhận của em về đoạn trích Trao Duyên – Nguyễn Du

Bài làm

Cảm nhận của em về đoạn trích Trao Duyên – Nguyễn Du là một đại thi hào văn học của nước ta. Ông đã để lại một khối lượng các tác phẩm văn học đồ sộ cho kho tàng văn học của dân tộc. Trong đó tác phẩm Truyện Kiều thực sự đã đi vào trong lòng mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là đoạn trích Trao Duyên. Đoạn trích là mỗi chuỗi sự đấu tranh, giằng co trong tâm trí của nàng Kiều: giữa một bên là chữ Hiếu – một bên là chữ Tình.

Nhan đề của đoạn trích là “Trao duyên. Mới đầu khi đọc nhan đề chúng ta sẽ rất dễ hiểu rằng bài thơ nói về tình cảm nam nữ nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của nam nữ như trong ca dao xưa ta vẫn thường gặp. Có đọc mới hiểu, trao duyên ở đây nghĩa là gửi gắm tình cảm, duyên phận của mình cho một người khác, nhờ người khác chắp nối tiếp tình cảm dở dang của mình. Như trong sự trao duyên của Kiều, hoàn cảnh thật éo le, đắng cay! Khi Kiều và chàng Kim đang đắm say trong hạnh phúc ước hẹn thì một biến cố đã ập tới với mối tình của họ. Chàng Kim phải trở về quê nhà chịu tang chú, khi chàng vừa mới đi thì tai họa ập tới với nàng. Gia đình nàng bị thằng bán tơ vu oan kiện quan bỏ tù. Vì không chịu nổi cảnh cha và em bị đánh đập dã man, nàng đành bán thân chuộc người. Sau khi đã lo liệu xong việc bán mình chuộc cha làm tròn chữ hiếu nàng mới lo tới chữ tình.

Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Hai câu thơ đầu chính là lời khẩn cầu của nàng Kiều tới em gái, lời khẩn cầu ấy thống thiết như van nài. Việc sử dụng những từ ngữ như: “Cậy, chịu” thay vì sử dụng từ “nhờ và nhận” cho ta thấy được sự tin tưởng của nàng Kiều khi nhờ em giúp mình một việc vô cũng quan trọng. Hơn thế nữa lại kết hợp với những từ chỉ hành động “lạy”, “thưa” càng cho ta thấy nàng Kiều đã tự hạ thấp mình trước Vân, coi em gái như một vị ân nhân, một bậc bề trên. Một người chị như nàng mà lại nói năng như vậy, cử chỉ như lạ lùng như vậy ắt hẳn việc nàng đang nhờ em mình là một việc vô cùng quan trọng. Cách sử dụng từ ngữ của đại thi hào Nguyễn Du vô cùng sắc bén và tài tình.

cam nhan cua em ve doan trich trao duyen cua nguyen du

Cảm nhận của em về đoạn trích Trao Duyên

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Quả đúng như vậy, việc mà nàng Kiều muốn nhờ em đó là việc quan trọng của cả một đời người. “Gánh tương tư” thật đâu có nhẹ nhàng gì. Nàng hiểu những gì thiệt thòi mà Thúy Vân sẽ phải chịu khi chấp nhận gánh hộ mình mối “tơ thừa” này nhưng vì hoàn cảnh éo le bắt buộc nàng đành phải làm khó em mình. Câu thơ đã thể hiện sự chắp nối gượng ép, sự nhờ vả mà như ép buộc người bị nhờ vả. Rõ ràng Kiều dường như  vừa nhờ cậy, vừa nài nỉ, van xin, ướm hỏi nhưng thực chất lại là ép buộc, từ “mặc” đã thể hiện điều đó. Giờ đây, trong hoàn cảnh đầy bi thương nàng chỉ có thể tin tưởng em mà gửi trao mối lương duyên đẹp nhưng mỏng manh này. Đồng thời nàng còn giãi bày cho em hiểu những nỗi đau của mình, mong nhận được sự cảm thông từ em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Tình cảm giữa nàng Kiều và chàng Kim mặn nồng là thế, sâu đậm là thế. Họ đã từng “ngày quạt ước”, “đêm chén thề”. Họ đã cùng nhau trao những lời thề sâu sắc, những tình cảm đầu đời vẹn nguyên và đẹp đẽ hỏi sao nàng Kiều không khỏi đớn đau, tê tái. Lòng nàng như bị ngàn mũi tên xuyên tim, trái tim nàng đang rỉ máu đầy đau đớn khiến cho người đọc không khỏi xót xa, thương xót cho nàng. Nhưng khi sóng gió gia đình đến, cha bị bắt đi, nay chữ “hiếu” với chữ “tình” không thể vẹn toàn. Nàng chỉ có thể làm tròn chữ ” hiếu” mà hi sinh chữ “tình”. Hi sinh tình cảm của mình đồng nghĩa với việc trái tim của nàng đã mất đi một nửa.

Sau khi đã giãi bày hết tấm lòng của mình. Thúy Kiều lại một lần nữa gửi tới em lời khẩn cầu trợ giúp:

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Thúy Kiều và Thúy Vân cùng đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, có lẽ tuổi tuổi của hai chị em chỉ xấp xỉ nhau. Vậy mà sao Kiều lại nói “ngày xuân em vẫn còn dài” còn “ngày xuân” của cô thì sao? Phải chăng Kiều đã tiên đoán được điều gì đó. Hay cô đã nghĩ tới cái chết sau khi bán mình chuộc cha? Câu thơ nghe mới đau đớn biết chừng nào. Thúy Kiều mong em hãy nghĩ tới tình cảm chị em mà nhận lời cầu khẩn của nàng. Thúy Kiều vô hình chung đã lấy cái tình để đưa em vào tình huống không thể chối từ. Đây quả là một sự thuyết phục hết sức khéo léo. Rồi nàng trao lại cho em những kỉ vật “chiếc vành” với “bức tờ mây” giữa mình và chàng Kim. Trao đi những kỉ vật mà tâm can nàng như bị xé ra hàng trăm mảnh. Nhưng bản thân dù đang trong hoàn cảnh đau khổ tuyệt vọng như thế nào, nàng vẫn lo nghĩ cho hạnh phúc của người yêu. Nàng vẫn mong em gái có thể giúp mình “nên vợ nên chồng” với chàng Kim, đem lại cho chàng Kim hạnh phúc trọn vẹn.Chỉ cần có vậy thì dù cho “thịt nát xương mòn” nàng vẫn có thể mỉm cười hạnh phúc nơi “chín suối”. Dường như nàng đã quyết định cho mình cái chết. Đọc tới đây, ắt hẳn ai cũng không kìm nổi những giọt nước mắt xót thương cho cuộc đời nàng Kiều.

Đau khổ lên đến đỉnh điểm, nàng trao duyên nhưng không hề thanh thản. Kiều thấy bản thân mình mang tội phụ bạc với người yêu, dù cho là hoàn cảnh ép buộc nhưng lại nhận hết mọi tội lỗi về mình. Sau khi trao hết đoạn duyên của mình cho em gái thì tấm lòng rối như tơ vò của Kiều giờ lại gọi tên tình lang. Nàng nhớ tới chàng Kim mà dường như đột nhiên quên đi sự xuất hiện của Vân, tiếng lòng quặn đau, xót xa xin lỗi và từ biệt cứ thế tự nhiên thốt lên:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây

Nàng than thở về số kiếp của mình với tình quân “cái phận bạc như vôi”rồi tự nhận mình là kẻ vong tình phụ bạc. Tiếng lòng đau đớn, dằn vật đến tột cùng vì không giữ được lời thề, để tình duyên nay đã chia đôi rơi vào bi kịch. Vừa như muốn xin lỗi vừa như muốn nhận được sự cảm thông từ tình quân của mình. Bởi cái “ phận bạc” chứ không phải sự đổi thay của lòng người, đó là điều nàng không hề biết trước và mong muốn. Nàng gửi tới người yêu “ trăm nghìn gửi lạy”. Cái lạy này khác với cái lạy cầu xin giúp đỡ lúc trước với Vân, đây là cái lạy của kẻ có lỗi có tội mong được tạ tội. Ta thật thấy đau xót thay cho số phận đắng cay của Kiều, càng thương xót thay cho cái tơ duyên tuy đẹp đẽ nhưng lại vô cùng ngắn ngủi ấy.

Với biệt tài sử dụng ngôn ngữ rất tài tình lại vô cùng khéo léo của mình đại thi hào Nguyễn Du đã khiến cho người đọc có thể trải qua mọi cung bậc cảm xúc cùng nhân vật Kiều. Hơn nữa thủ pháp miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc đã khiến người đọc phải cảm thương, cảm thông cho một nàng Kiều hiếu thảo trọn vẹn nghĩa sinh thành nhưng phải hi sinh hạnh phúc của chính mình, hi sinh chính cuộc đời mình. Một hồng nhan nhưng bạc mệnh, một mối tình đẹp nhưng lại lỡ duyên… Tất cả đều khiến cho đoạn trích Trao duyên trở thành một dư âm mãi không phai trong lòng người đọc.

Họa Tâm


— Cập nhật: 11-04-2023 — nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Top 6 bài văn phân tích bài Trao duyên lớp 10 (Siêu hay) từ website tailieu.com cho từ khoá cảm nhận bài trao duyên lớp 10.

Qua bài thơ “Trao duyên” của nhà thơ Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được nỗi lòng Thúy Kiều khi phải từ bỏ lời hẹn ước trăm năm của mình đối với chàng Kim Trọng. Đồng thời cũng thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến. Để hiểu rõ hơn, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu chi tiết trong bài viết này.

Phân tích đoạn trích Trao duyên – Mẫu số 1

Bằng sự xót thương, đồng cảm cùng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Thúy Kiều – hình tượng đại diện cho vẻ đẹp, số phận đau khổ, bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Trích đoạn “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm đã thể hiện rõ điều này. Đây là những câu thơ có vị trí “bản lề”, đánh dấu sự mở đầu, bước ngoặt định mệnh của 15 năm lưu lạc trong cuộc đời của Thúy Kiều.

Trước hết, Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân bằng những hành động, lời nói, cử chỉ sâu sắc, tinh tế cùng lí do trao duyên hợp tình, hợp lí. Là người con gái thông minh, nhạy bén, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời lẽ, hành động đặc biệt khác thường:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ miêu tả hành động để tái hiện không gian của sự kiện “trao duyên”: “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin cậy, “chịu lời” mang sắc thái bị nài ép mà chấp nhận, “mặc” mang ý nghĩa phó thác, phó mặc. Qua hệ thống ngôn từ tinh tế, khéo léo, sắc sảo đó, chúng ta có thể thấy được Kiều là một người hết sức khôn khéo. Hành động của nàng cũng thể hiện sự trang trọng: em  – “ngồi lên”, chị – “lạy”, “thưa”. Những từ ngữ trên đã tái hiện thành công không khí trang trọng của sự kiện “trao duyên”, đồng thời Kiều cũng thấu hiểu rằng nàng là người chịu ơn, mang ơn đối với Thúy Vân. Để thuyết phục em, Kiều đã gợi lại tình yêu tươi đẹp của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Tác giả đã điểm xuyết những kỉ niệm của mối tình Kim – Kiều khắc cốt ghi tâm qua những hình ảnh ước lệ: “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ “đứt gánh tương tư”, nàng đã thuyết phục em bằng những lí lẽ: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Vì bán mình chuộc cha, nàng đã phần nào làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nhưng lại đánh mất mối tình cùng Kim Trọng. Không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, nàng vin vào tuổi xuân của em và tình chị em máu mủ để trao lại mối tình còn dang dở: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Như vậy, qua những câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được Kiều đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục, thấu tình đạt lí, thể hiện nàng là người con gái tinh tế, sắc sảo.

Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: Chiếc Hoa, Bức Tờ Mây, Phím Đàn, Mảnh Hương Nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng – Thúy Vân – Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó.

Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Sau khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” – câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. 

Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy.

Càng đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng:

“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Nàng quay trở về thực tại và ý thức sâu sắc về bi kịch số phận qua hàng loạt thành ngữ: “trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ, “phận bạc như vôi” nhấn mạnh sự bạc bẽo, bất hạnh, “nước chảy hoa trôi” thể hiện số phận long đong, chìm nổi. Trong trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Thúy Kiều không chỉ đối thoại với Thúy Vân khi trao duyên, đối thoại với chính mình khi hồi tưởng về quá khứ, ngẫm về số phận mà còn đối thoại với chàng Kim trong sự thức tỉnh về bi kịch hiện tại: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đó không phải là cái lạy của kẻ bề dưới đối với bề trên, càng không phải là cái vái lạy của kẻ chịu ơn, mà là cái lạy tạ lỗi nhưng cũng là lời vĩnh biệt tức tưởi nghẹn ngào, thể hiện Thúy Kiều hướng về Kim Trọng trong sự xót xa, cầu khẩn. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang ở trước mắt và bất giác chìm sâu vào tuyệt vọng: 

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Hai câu cuối vỡ òa thảng thốt, Kiều đã không kìm nén được lòng mình mà thốt lên lời than vãn bi ai. Các từ cảm thán “ôi”, “hỡi’ đã nhấn mạnh nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự chua xót, bẽ bàng. Đặc biệt, từ “phụ” đã nhấn mạnh nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Dù là người mệnh bạc, bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu nhưng Kiều tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/ 3 và 2/2/2 như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện sự đau đớn. Đoạn thơ đã làm nổi bật hơn nữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cùng tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều.

Như vậy, qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được tình yêu sâu nặng cùng bi kịch của Thúy Kiều. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích bài thơ Trao duyên – Mẫu số 2

Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.

Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”, tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu.

Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô “chị, em”. Từ “cậy” đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần “thưa” hay “lạy”, nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ “em” được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh “lạy”, “thưa” “cậy” mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Thúy Vân trở thành bề trên, “ngồi lên” để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu.

Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:

Giữa đường đứtt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái “đứt gánh tương tư” ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng “mặc em” giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh “quạt ước”, “chén thề”, nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. “Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy.

Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết “Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi “thịt nát xương tan”, nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng.

Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:

Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm “của chung”, của cả hai chị em. Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác. “Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”, một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ.

Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:

Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. “Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan”, hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn.

Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:

Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố “gương gãy”, “trâm tan”, những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. “Muôn vàn ái ân” nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”.Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn “bạc như vôi”, “nước chảy, hoa trôi lỡ làng”, sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng ” Hỡi Kim Lang!” thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi “lang” là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là “lang”, là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Đoạn trích “Trao duyên” đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.

Qua “Trao duyên”, Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

phan tich bai trao duyen 1

Phân tích Trao duyên của Nguyễn Du – Mẫu số 3

Thiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một kiệt tác văn chương của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh éo le, dang dở tình duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc.

Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự lạ lẫm, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái lạ lẫm của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính éo le trong đoạn trích này. Sự nghịch lý chính nằm ở hành động trao duyên của Thúy Kiều, nàng muốn đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thúy Vân, nhờ em nối tiếp nhân duyên trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa”, được tác giả sử dụng mang giá trị gợi tả và gợi cảm cực đắt. Thúy Kiều không đơn giản là nhờ vả mà là trông cậy vào Thúy Vân, chỉ có Vân mới giúp được Kiều trong hoàn cảnh này, nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với chính em của mình, chỉ mong em có thể chấp nhận lời đề nghị khó khăn nhưng thiêng liêng này. Thúy Kiều trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn thể hiện được sự khéo léo, tài tình và thông minh, coi em như ân nhân của mình bằng tất cả sự kính trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim, giãi bày lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thúy Vân, chính vì sóng gió ập đến bất ngờ với gia đình khiến nàng đành từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em máu mủ, thấu hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng mà chấp nhận mang vào mình mối tơ thừa duyên tình của Kiều. Lời nói của Kiều đã thấu đạt hết lý hết tình, Vân có muốn từ chối cũng khó mặc dù Kiều biết đó cũng là điều thiệt thòi và khó xử cho Vân. Có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dù chết cũng cảm thấy yên lòng và mãn nguyện, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện sự cảm kích trước những thiệt thòi mà em phải chịu thay mình. Sau khi đã nói lời trao duyên, đến lúc Kiều trao lại những kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”

Đem những kỉ vật tình yêu thiêng liêng trao đi, Kiều như trao đi những thứ quan trọng nhất của cuộc đời mình, bây giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa phải trao đi cho thấy nàng và Kim Trọng đã yêu nhau sâu đậm, nồng nàn và chung thủy một lòng. Mất đi tình yêu, trao đi kỉ vật, cuộc sống của Kiều đã không còn gì đáng luyến tiếc hơn nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dù có chết vẫn giữ trọn lời thề son sắt:

“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Kiều đã tuyệt vọng hết sức, chẳng còn hy vọng nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng không thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi đau khổ của nàng:

“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

Tất cả tình duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự tuyệt vọng, tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh phúc.

Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng kết hợp với những từ ngữ mang giá trị gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc mệnh của Kiều.

Phân tích đoạn thơ Trao duyên – Mẫu số 4

Nhắc đến Nguyễn Du – đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” – kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên “Truyện Kiều” nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một trích đoạn đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đọc.

Trong đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim. Mở đầu là câu thơ mang nặng sự nhờ vả, trông cậy của Kiều dành cho Vân:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Từ “cậy” vừa thể hiện sự tin cậy lại vừa nhấn mạnh Vân là sự lựa chọn duy nhất, hợp lý nhất trong hoàn cảnh đó của Kiều, kết hợp với hành động “lạy”, “thưa” dường như Kiều đang trong trạng thái đau đớn, trong tình cảnh của kẻ mang ơn. Kiều tuy là chị nhưng lại quỳ lạy, thưa gửi với em của mình, có phần trái ngược với giáo lý phong kiến nhưng lại đúng với hoàn cảnh éo le, trước khi nhờ cậy Kiều đã kính cẩn, trạng trọng coi Vân như người ân nhân của mình. Điều đó cũng dự báo việc nàng nhờ cậy là việc rất quan trọng, khó khăn, chính vì vậy Kiều phải hết lòng giãi bày, tâm sự và thuyết phục Vân hiểu và chịu cho mình:

“Giữa đường đứt gánh tương tư…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Trong đoạn thơ, Kiều nhắc đến “mối tơ thừa” chính là mối tơ tình duyên của nàng với chàng Kim, đối với Vân mối tình duyên đó chẳng có ý nghĩa, chỉ là thừa thãi bởi vốn Thúy Vân và Kim Trọng đâu có tình cảm gì. Phải mang vào mình mối thừa ấy là một thiệt thòi của Vân, biết vậy nhưng Kiều cũng chỉ “mặc em”, bởi nàng cũng không có cách nào, không có lựa chọn nào khác. Nàng còn kể về mối tình với chàng Kim để mong em hiểu cho nỗi lòng, nghĩa tình sâu nặng giữa mình và Kim Trọng, nếu không trả khó có thể trọn vẹn, chỉ bởi sóng gió ập đến gia đình mà nay đành phải đứt gánh giữa đường. Thúy Kiều rất thông minh khi những lí lẽ nàng thuyết phục Thúy Vân vẹn tròn cả lý lẫn tình, nàng nhắc đến tình máu mủ ruột già mong em hãy bằng lòng chấp nhận, chính điều đó đã khiến cho Thúy Vân không thể từ chối lời thỉnh cầu của chị. Bước sang phân cảnh Kiều trao lại kỉ vật tình yêu với Kim Trọng cho Thúy Vân, ta thấy được một tình yêu đẹp, chân thành mà sâu sắc giữa hai người:

“Chiếc vành với bức tờ mây…
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Những kỉ vật như chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền giờ đây trở thành của chung ba người, tuy trao đi kỉ vật nhưng lòng Kiều vẫn giữ mãi ân tình, không quên được những kỉ niệm với người yêu, điều đó khiến nàng đau xót như mất đi những phần quan trọng của cuộc sống.

“Mai sau dù có bao giờ…
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Kiều nhiều lần nhắc đến cái chết trong những lời của mình, một phần muốn chắc chắn rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng khi đã bán mình chuộc cha và em cũng khó có thể biết được số phận trôi dạt về đâu, sống chết không rõ ra sao. Kiều dù chết đi vẫn mong người ở lại hãy nhớ đến mình, mong muốn có được sự đồng cảm của mọi người, và đến khi chết nàng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng.

“Bây giờ trâm gãy bình tan…
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Kiều quay về thực tại, chẳng còn kỉ niệm tình yêu ngọt ngào nữa, giờ đây là hiện thực dở dang, lỡ làng, tan vỡ, bây giờ tình duyên của nàng đã mất, cuộc đời cũng sắp phải giao cho người khác, số phận nàng “bạc như vôi”. Nàng gọi tên chàng Kim trong nỗi thổn thức, xót xa và như một lời từ biệt cuối cùng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”, nàng đã phụ tấm lòng chàng Kim, nàng tuyệt vọng dưới sự đày đọa của hoàn cảnh và số phận.

Thông qua việc phân tích bài trao duyên, ta không chỉ thấu hiểu được bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều mà còn thấy được ở đó hiện lên nhân cách cao đẹp của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Qua nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du cũng bày tỏ sự cảm thông, xót xa trước những bất hạnh và hiện thực bất công của cuộc đời Kiều.

phan tich bai trao duyen 2

Phân tích thơ Trao duyên – Mẫu số 5

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.

 “Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?

Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

“Cậy” và “nhờ” là hai từ đồng nghĩa nhưng tại sao trong trường hợp này, Thúy Kiều lại nhờ từ “cậy”? Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em ruột, vì thế nàng Kiều đã dốc hết lòng tin để gửi gắm mối duyên tình. Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Người được nhờ có thể nhận lời hoặc từ chối giúp đỡ nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh mà nàng chỉ có thể “chịu lời”. “Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Trong trường hợp này, Thúy Vân là người mà Thúy Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ hiểu.

 Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều mà Thúy Kiều không ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Chỉ còn đêm nay là đêm cuối cùng ở nhà bởi ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác, tình yêu với Kim Trọng chỉ còn trong kí ức chứ không thể nào tiếp tục được nữa. Nhưng Thúy Kiều không phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Tình yêu ấy đối với Thúy Kiều có thể là một tình yêu đẹp nhưng đối với Thúy Vân thì đó có thể là “tơ thừa” vì nàng không hề có tình cảm với Kim Trọng cũng như không liên quan đến mối tình Kim – Kiều. Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng.

Không chỉ bằng lời nói, lễ nghi trang trọng mà Thúy Kiều còn kể cho Vân nghe chi tiết chuyện tình yêu của mình để thuyết phục em:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”

 Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy:

“Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi”

Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Trong hoàn cảnh éo le như vậy, giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, nàng bắt buộc chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ “hiếu” còn chữ “tình” nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình. Trong xã hội phong kiến, có mấy ai làm trọn vẹn được cả “tình” cả “hiếu” và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha khi luôn nghĩ cho người khác mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ “hiếu” của nàng cũng là điều hợp tình hợp lí bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn ấy chúng ta không thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là “người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa” (Chu Mạnh Trinh).

Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào.

Dù không muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em gìn giữ, trân trọng mối tơ duyên đó:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều đau khổ nhất, điều ấy quả không sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim – Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Nỗi đau đớn của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn phụ bạc chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm như vậy. Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ – một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh tình cảm cá nhân vì gia đình, nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân để mong Kim Trọng được hạnh phúc vậy thì một chút “duyên” nàng xin được giữ lại cũng là điều dễ thấu hiểu. Lại thêm một lần nữa, Thúy Kiều nghĩ về cái chết. Phải chăng nàng đã dự đoán được số phận nổi trôi, vô định, hẩm hiu của mình? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc bẽo, không may mắn.

Tuy kỉ vật đã trao nhưng dường như Thúy Kiều không thoát khỏi được sự ám ảnh về cái chết, nàng vẫn chưa thể yên lòng:

“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan”.

Kiều nhắc em mai sau có đốt lò hương hay đánh đàn thì hãy nhớ đến mình, lúc ấy nàng mong Vân hãy “trông ra ngọn cỏ lá cây” để thấy được linh hồn oan khuất của mình. Lời nhắn nhủ ấy tức tưởi và đau xót biết bao. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng. Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan.                           

Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đau đớn tự độc thoại với chính mình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu hiện cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy đến bất ngờ, đột ngột quá nên “muôn vàn ái ân” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng. Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần ấy, số phận thì bạc bẽo như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, giằng xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi đến người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ phụ bạc đã phá đi lời thề nguyền trước đây. Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!

Sau khi phân tích bài Trao duyên, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết:

“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.

Phân tích bài thơ Trao duyên lớp 10 – Mẫu số 6

Nguyễn Du – một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và ghi dấu tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật nước nhà và thế giới. “Trao duyên” là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều nói về tình yêu sâu nặng cũng như bi kịch số phận của Kiều trước biến cố cuộc đời.

Đoạn trích nói về hoàn cảnh của gia đình Kiều dẫn đến việc Kiều phải “trao duyên”. Bọn sai nha gây ra vụ án oan sai đối với gia đình Kiều, khiến nàng phải bán mình lấy để chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán đi quyền lựa chọn đối với cuộc đời mình, nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thế nhưng vì tình sâu nghĩa nặng, Kiều không thể cứ thế mà phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân là em gái mình, mong rằng em có thể thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Bằng những hành động và lời lẽ lí tình thấu đáo, Kiều cố gắng thuyết phục em mình:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Từ “cậy” diễn tả sự trông cậy, mong mỏi tha thiết chứ không đơn giản là nhờ vả, kết hợp với từ “chịu” giống như đặt người nghe vào hoàn cảnh phải đồng ý trước rồi mới nói. Thúy Kiều chính là đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh đó, rồi nàng còn có hành động mời em ngồi lên để mình quỳ lạy, thưa gửi, đó là hành động thể hiện sự kính trọng, biết ơn đối với ân nhân. Kiều biết chuyện mình trao duyên cho em là khó khăn và khó xử đối với em nên cần thiết phải hành động như vậy để bù đắp lại. Kiều hiểu rằng mối tình giữa nàng và Kim Trọng chỉ là “mối tơ thừa” đối với Vân nhưng vì hoàn cảnh mà nàng vẫn phải trao duyên, gửi gắm duyên tình, mặc cho em vướng vào gánh nặng ân tình đó.

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Nàng Kiều giãi bày lí do phải trao duyên cho em đó chính là bởi “sóng gió bất kì” đã ập xuống gia đình, nàng phải hy sinh chữ tình để đổi lấy chữ hiếu. Lời nói của Kiều đầy đủ lí lẽ lại lấy tình cảm chị em máu mủ ra để thuyết phục Thúy Vân, nếu như có được sự đồng ý của Vân, Kiều dù có phải bán mình sống chết oan uổng cũng được mãn nguyện, việc làm của Vân sẽ là ơn sâu nghĩa nặng đối với Kiều.

“Chiếc vành với bức tờ mây…
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Sau những lời thuyết phục đầy lí lẽ của Kiều, khó có thể cho Vân đường chối từ, biết em sẽ thấu hiểu cho mình mà chấp nhận nên Kiều đem những kỉ vật tình yêu ngày xưa trao cho Vân. Tay trao kỉ vật nhưng lòng nàng nặng trĩu, đau xót như mất đi những điều quý giá nhất, giờ đây kỉ vật đã là của chung của ba người, chỉ còn tình yêu và duyên ước nàng giữ cho riêng mình. Nàng dặn dò Thúy Vân mai này có nên vợ nên chồng với chàng Kim hãy nhớ đến người mệnh bạc như nàng. Thúy Kiều nhắc đến cái chết qua những câu thành ngữ, tục ngữ hay từ ngữ như: “hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài”, nàng như đã dự cảm chẳng lành về số phận của mình, bi kịch lớn nhất là cái chết, thế nhưng dù có chết nàng cũng không quên lời thề với Kim Trọng, chỉ mong Kim Trọng sau này khi trở về sẽ thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh éo le của nàng.

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Lời độc thoại của Thúy Kiều dày đặc các từ: “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi” ám chỉ sự tan vỡ, đứt gánh giữa đường của mối duyên tình. Tình yêu sâu đậm, nồng nàn và chung thủy là thế, nhưng giờ đây nàng cũng đành phụ tình, hoàn cảnh đã đẩy số phận nàng vào bước đường cùng, chẳng còn lựa chọn nào khác cho Kiều. Dù có đau xót than oán nàng cũng đành cam chịu, tiếng gọi tha thiết dành cho Kim Trọng như một lời xin lỗi từ đáy lòng Kiều:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

“Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng gọi tha thiết yêu thương lại vừa là lời than thân trách phận của Kiều, nàng cảm thấy có lỗi với chàng Kim và xót xa cho Kim Trọng khi nơi xa xôi vẫn luôn tin tưởng, chờ mong người đã phụ bạc như nàng. Cái lạy của nàng dành cho người tình quân như là tạ tội và vĩnh biệt chàng Kim. Có thể nói, tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu đậm và tha thiết, thế nhưng, nàng đã hy sinh vì gia đình, quên đi nỗi đau của mình hướng đến nỗi đau của cha mẹ và hai em.

Qua việc phân tích bài trao duyên, chúng ta có thể thấy được  bi kịch tình yêu và thân phận bất hạnh của Thúy Kiều một cách sâu sắc. Đây cũng là một trong những trích đoạn tiêu biểu cho tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.

phan tich bai trao duyen 3

Dàn ý phân tích Trao duyên

1. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều:

+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn, một nhà văn, nhà thơ vĩ đại.

+ Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.

– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên:

+ Vị trí: Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều” phần gia biến và lưu lạc.

+ Nội dung: Thuật lại diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng trao duyên cho Thúy Vân nhờ em trả nghĩa với chàng Kim hộ mình.

2. Thân bài:

* Khái quát về hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên

– Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều vì sự vu oan của thằng bán tơ. Cha và em trai bị đánh đập tàn nhẫn, của cải bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ còn lại một đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.

* Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim

– Lời nhờ cậy của Kiều

+ “Cậy”: một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, còn mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ, hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng.

+ Chịu: nài ép, bắt buộc, không thể từ chối.

– Hành động nhờ cậy:

+ “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn.

– Lí lẽ trao duyên của Kiều:

+ Kiều kể về tình yêu với Kim Trọng, nguyên nhân sự tan vỡ và quyết định của mình : “khi ngày… chén thề”, nguyên nhân tan vỡ: “Sự đâu… bất kì”, quyết định khó xử: “Hiếu tình… vẹn hai”.

+ Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:

Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”, Kiều buộc phải chọn hoặc “hiếu” hoặc “tình”, Kiều chọn hi sinh tình.

“Ngày xuân em hãy còn dài”

“Xót tình máu mủ thay lời nước non”

“Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện.

* Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Vân

– Kiều trao kỉ vật

+ “giữ – của chung – của tin”

“Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa

“Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều: mảnh hương, tiếng đàn.

– Lời dặn dò của Kiều với Vân:

+ Kiều dự cảm về cái chết : hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan

+ Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân

“Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.

“Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.

* Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng

– Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại

– Nghệ thuật đối lập: quá khứ với hiện tại

– Hành động

+ Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt (khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu)

+ Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

+ “Kim Lang”: cách gọi thân mật như vợ chồng.

– Từ cảm thán (Ôi, hỡi, thôi thôi): tiếng kêu đầy tuyệt vọng, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo bất công chà đạp số phận con người.

3. Kết bài:

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên.

+ Giá trị nội dung: thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên; nhân cách cao đẹp của Kiều khi hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình.

+ Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính, hình thức độc thoại và kết hợp sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ.

– Nêu cảm nhận đánh giá của em về đoạn trích.

►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải về Top 6 bài văn mẫu phân tích Trao duyên trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du lớp 10 hay nhất file PDF hoàn toàn miễn phí.


— Cập nhật: 11-04-2023 — nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (15 Mẫu) từ website c3lehongphonghp.edu.vn cho từ khoá cảm nhận bài trao duyên lớp 10.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) bao gồm dàn ý chi tiết cùng 15 bài văn mẫu hay nhất do THPT Lê Hồng Phong biên soạn sẽ giúp các em có thêm nhiều gợi ý mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình trở nên sinh động, cuốn hút nhất.

Đề bài: Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Trao duyen 2
Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Dàn ý cảm nhận Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều

– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên

2. Thân bài

a. Lời nhờ cậy trao duyên của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)

* Bốn câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều

– Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết.

– “Cậy” vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng.

– Kiều dùng lời nói, hành động của người chịu ơn để nói với Thúy Vân.

* Tám câu tiếp: Sự thuyết phục của Thúy Kiều

– 4 câu thơ tiếp: Thúy Kiều Kể về mối tình với chàng Kim

+ Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim.

– 4 câu thơ sau: Lí do Kiều quyết định trao duyên

+ Biến cố gia đình ập tới, Kiều buộc phải từ bỏ tình yêu để làm tròn chữ hiếu

+ Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước

+ Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết.

b. Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân (14 câu thơ tiếp theo)

* Sáu câu đầu: Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân

– Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng.

– Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em.

– Sự mâu thuẫn, xung đột: Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể.

* Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều

– Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan

c. Thực tại xót xa và lời nhắn gửi tới chàng Kim (tám câu thơ cuối)

– Dù do tình cảnh ép buộc, nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phụ chàng Kim. – – Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột.

d. Đánh giá nghệ thuật

– Cách sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo

– Các thành ngữ dân gian

– Khẳng định tài năng của Nguyễn Du

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

Sơ đồ tư duy cảm nhận đoạn trích Trao duyên

so do cam nhan trao duyen
Sơ đồ tư duy cảm nhận đoạn trích Trao duyên

15 Bài mẫu Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều lớp 10 hay nhất

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 1

Nguyễn Du là nhà thơ lỗi lạc của nền văn học Việt Nam. Thông qua kiệt tác “Truyện Kiều”, tác giả đã tái hiện đầy chân thực hình ảnh một xã hội phong kiến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX mục nát, bất công đã chèn ép, đùn đẩy con người đến bước đường cùng. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều, tuy chỉ là một trích đoạn ngắn nhưng đã phần nào thể hiện được diễn biến tâm lí phức tạp, sự giằng xé trong tâm trạng của nàng Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.

Sau khi bị thằng bán tơ hãm hại, gia đình gặp biến cố, Thúy Kiều đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai bị bắt giam. Đặt chữ hiếu lên trên cũng có nghĩa Thúy Kiều phải từ bỏ mối tình đẹp còn đang dang dở với Kim Trọng. Không thể thực hiện lời thề nguyền lứa đôi, Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình hoàn thành lời hứa với Kim Trọng dẫu trong lòng có bao đau đớn, xót xa:

“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Xét về địa vị trong gia đình, Thúy Kiều là chị, người có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Tuy nhiên, khi trao duyên, Thúy Kiều đã sử dụng những từ “cậy”, “chịu” và có những hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy càng trở nên tha thiết; không khí của cuộc trò chuyện vì vậy cũng nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Thúy Kiều sử dụng từ “cậy” mà không phải từ “nhờ” vừa tạo ra sự tha thiết trong lời nói vừa tạo ra sức nặng khiến Thúy Vân khó có thể từ chối. Thúy Kiều muốn Thúy Vân thay mình bù đắp cho chàng Kim nhưng cũng hiểu rằng như vậy sẽ bất công, thiệt thòi cho Vân nên đã có những hành động trang trọng, trái với lễ nghi: quỳ, lạy.

Quyết định trao duyên cho Thúy Vân không chỉ thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều với em mà qua những hành động trang trọng còn cho thấy Thúy Kiều thực sự đã coi Thúy Vân như ân nhân, người đã giúp đỡ mình trong cơn nguy khốn. Những lời nói của Thúy Kiều với Thúy Vân khi trao duyên đều vô cùng dứt khoát, mạnh mẽ “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, tuy nhiên đằng sau sự vô tư, mạnh mẽ ấy lại là nỗi đau thấu tâm can bởi với Thúy Kiều, mối tình với Kim Trọng đâu phải mối tình trăng gió thoáng qua mà là mối tình khắc cốt ghi tâm. Sau khi thuyết phục em bằng những lời lẽ và hành động sắc sảo, khiến em không thể từ chối, Thúy Kiều đã có những tâm sự đầy thiết tha về mối tình dang dở của mình với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Kiều đã kể cho em về cuộc gặp gỡ và đính ước cùng chàng Kim. Những hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề” một lần nữa làm sống dậy những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ, sâu đậm với chàng Kim nhưng cũng gợi ra bao đau đớn, xót xa của thực tại khi hiện thực trái ngang đã chia rẽ tình yêu đôi lứa. Kim Trọng về quê chịu tang chú, Thúy Kiều chấp nhận bán mình cứu cha, đặt chữ hiếu lên trên chữ tình khiến cho tình duyên không thể vẹn tròn “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”

Thúy Kiều mang những tâm sự, nỗi đau từ tận đáy lòng để giãi bày cùng Thúy Vân chỉ hi vọng Vân có thể thấu hiểu và đồng ý với yêu cầu của mình. Để lời yêu cầu có thêm sức nặng, Thúy Kiều đã nhắc đến tình máu mủ và cả cái chết, thế mới thấy nguyện ước trao duyên của Thúy Kiều tha thiết, đau đớn đến nhường nào. “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” không chỉ là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể từ chối mà còn là những dự cảm không lành của Thúy Kiều về tương lai, số phận của mình.

Qua lời trao duyên của Thúy Kiều, ta có thể thấy được sự sắc sảo, thông minh, khôn khéo mà thấu tình trong lời thuyết phục của nàng. Để hoàn tất nghi thức của việc trao duyên, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng:

“Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung Dù em nên vợ nên chồng Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” gợi ra đoạn tình cảm sâu nặng, thiêng liêng của mối tình Kim – Kiều. Vì nó gắn với tình yêu, những nguyện thề thiêng liêng nên khi trao lại cho Thúy Vân, Kiều lại có chút xót xa, không lỡ. Đến đây, ta có thể thấy được sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm của nàng Kiều. Nếu như những câu thơ trên, Kiều thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ đầy khôn khéo khi trao lời thì đến lúc trao kỉ vật lại thể hiện rõ sự tiếc nuối, xót xa. Lời nói như uất nghẹn, như chực trào nức nở đã thể hiện nỗi đau đứt ruột của người con gái trước những ngang trái của cuộc đời.

Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận chặt đứt mối quan hệ với chàng Kim. Sau khi trao lại những kỉ vật cho Thúy Vân, trong nỗi đau đớn cùng cực, Thúy Kiều thẫn thờ như người vừa đánh mất linh hồn, chỉ còn lại những độc thoại đau đớn cùng một tâm trí bế tắc, túng quẫn:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Đoạn trích “Trao duyên” đã giúp ta hiểu rõ hơn về tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du, đặc biệt trong việc khắc họa tâm trạng đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi quyết định trao duyên, đoạn tuyệt mối tình đẹp đẽ, thiêng liêng với chàng Kim. Cũng qua đây, tác giả lên án xã hội phong kiến bất công, đồng thời bày tỏ sự đồng cảm của mình với số phận đau khổ, ngang trái của con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội xưa.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 2

Nhắc đến văn học Việt Nam, ngay cả bạn bè quốc tế, không ai không biết đến “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. 3245 câu thơ lục bát, mỗi câu đều thấm vào lòng người, rung động cả thời gian. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.

Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, trai tài gái sắc đem lòng cảm mến. Một đêm trăng thanh đã định ra lời thề nguyền. Song Kim Trọng phải về quê chịu tang chú ruột. Biến cố cũng bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều. Để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh. Vì làm tròn chữ hiếu, nàng đành phải từ bỏ mối tình tốt đẹp với Kim Trọng. Lời thề nguyền trước đó không bao lâu, Kiều không thể thực hiện được. Vào đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều quyết định nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình cho Kim Trọng.

“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Trong gia đình Vương ông, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Kiều vốn có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Nhưng khi trao duyên, từ hành động đến cử chỉ, Thúy Kiều đều tự hạ mình để khẩn cầu em. Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết. Không khí cuộc trò chuyện từ đó cũng trở nên nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Không phải “nhờ” mà là “cậy”. “Cậy” vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng. Dù muốn em thay mình nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Song Thúy Kiều vẫn hiểu rằng như thế là bất công với Thúy Vân. Những lời nói và hành động trái với vai vế lễ nghi, chứa đầy sự trang trọng do vậy mới xuất hiện.

Là chị, nhưng Kiều không đứng ở vị trí của người chị mà dùng tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Lời nhờ cậy ngỏ ra vẫn còn dè dặt, không bắt ép mà “mặc em” quyết định. Tình yêu với Kim Trọng không phải mờ nhạt thoáng qua mà là khắc cốt ghi tâm. Từ bỏ, Kiều phải chịu đựng nỗi đau tan nát cõi lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.

Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã nói về cảnh ngộ bắt buộc của mình và mối tình dang dở với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim. Đồng thời cũng như một lưỡi dao sắc, gợi bao đau đớn, xót xa của hiện thực. Tình yêu đôi lứa bị chia cắt, dang dở.

“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”

Trong sâu thẳm tâm hồn người con gái tài sắc vẹn toàn là những tâm sự và nỗi đau khắc cốt ghi tâm. Từng câu từng chữ đều thăm thẳm đớn đau xé lòng. Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết. Nguyện ước trao duyên quả thật tha thiết, xót xa khôn cùng. “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” đều là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể chối từ. Ngoài ra cũng như mang theo mà dự cảm không lành của nàng về tương lai, số phận bi kịch nhiều sóng gió.

Sau khi thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo, thấu tình đạt lí, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng, hoàn tất nghi thức trao duyên:

“Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung Dù em nên vợ nên chồng Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng, minh chứng cho một mối tình đẹp đẽ mang tên Kim – Kiều. Dù dang dở, dù thuộc về quá khứ, nó vẫn vô cùng thiêng liêng với Kiều, trao lại cho em, lòng nàng không thể nén được nỗi xót xa, không nỡ. Đây chính là thời điểm lí trí và tình cảm của nàng xảy ra mâu thuẫn.

Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em. Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể. Nếu như trước đó, Kiều tỏ ra đầy dứt khoát, khôn khéo trong lời nói. Thì đến đây, câu từ đều thấm đượm sự tiếc nuối, xót xa. Từng lời nói như nghẹn lại, trực trào nức nở, mang nặng nỗi đau xé ruột xé gan của người con gái lần đầu rung động trước những ngang trái cuộc đời.

“Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này, Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin chén nước cho người thác oan”

Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết. Nàng tự nhận mình bạc mệnh, nghĩ đến cả tình cảnh mình chết đi. Dù phải đến một thế giới khác, dù không thể trở lại cuộc sống bình thường và số phận mong manh. Kiều vẫn không hề thanh thản mà còn nặng lòng hơn với tình duyên, canh cánh vẫy vùng trong sự bất lực thác oan, đau đớn.

Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận từ bỏ đoạn tình cảm tốt đẹp này, cắt đứt mối liên hệ với chàng Kim. Vậy nên, khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, linh hồn của nàng dường như cũng đánh mất. Nỗi đau đớn bấy giờ không kìm nén nỗi mà trào dâng trong tâm trí bế tắc, túng quẫn:

“Bây giờ trâm gãy gương tan Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Dù do tình cảnh ép buộc, dù do sóng gió tai ương bất ngờ ập đến. Nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phục chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Mọi bi kịch, mọi khổ đau và tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dường như đã lên đến đỉnh điểm. Song, chúng ta vẫn nghe thấy trong đó cả tiếng lòng cảm thông của tác giả và sự trân trọng cô gái trọng nghĩa tình.

“Trao duyên” là bức tranh tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ muôn vàn xót xa của Thúy Kiều. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Đồng thời, đại thi hào Nguyễn Du cũng thể hiện được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy. Không chỉ là tấm lòng đồng cảm xót thương, Nguyễn Du còn dường như hóa thân thành nhân vật để tự trải lòng. Nội tâm Thúy Kiều nhờ đó được tái hiện vô cùng toàn diện. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.

Có thể nói, đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ lục bát và các biện pháp tu từ. Đặc biệt qua các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn dằn vặt của Kiều khi trao duyên. Từ đó làm nổi bật hình ảnh người con gái trọng tình trọng nghĩa. Đoạn trích không chỉ làm nổi bật tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Mà còn thể hiện cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương và sự cảm thông của Nguyễn Du dành cho nhân vật.

Đoạn trích “Trao duyên” với những giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy thực sự đã mang đến cho chúng ta cái nhìn chân thực hơn về thời đại. Thời đại đồng tiền có thể chà đạp số phận con người, băng hoại đạo đức và đầy rẫy bất công. Để rồi rất nhiều năm qua đi, người ta vẫn nhớ mãi tác phẩm mang đầy giá trị nhân đạo “Truyện Kiều”.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 3

Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đoạn “Trao duyên” trích trong tác phẩm là đoạn đặc sắc khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thuý Kiều khi ngậm ngùi trao duyên cho em gái Thuý Vân.

Theo mạch truyện, nguyện ước kết duyên trăm năm của Thúy Kiều và Kim Trọng chưa được bao lâu thì tai biến xảy đến với gia đình Kiều. Không đành lòng trước sự khổ sở mà cha và em phải gánh chịu, Kiều quyết định bán mình để cứu gia đình. Mọi việc dường như đã xong xuôi, Kiều thức trắng đêm nghĩ đến chàng Kim và tình yêu mặn nồng cùng chàng, vừa day dứt vừa tiếc nuối, Kiều đành cậy nhờ em gái kết duyên với Kim. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm:

Thuý Kiều mở lời với em:

“Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Cả cử chỉ và lời nói của Kiều đều chung một niềm trông mong, nhờ cậy. Hành động “lạy” em của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình huống khó có thể chối từ đồng thời cũng là dấu hiệu cho thấy việc mà Kiều sắp nói với Vân đây là vô cùng hệ trọng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Thành ngữ “đứt gánh tương tư” được tác giả vận dụng thể hiện có ý chỉ tình yêu dang dở của Kiều -Kim. Tình cảm của hai người vừa mới chớm nở, chưa kịp tới ngày viên mãn thì đành ‘đứt gánh”, sóng gió ập tới. Chấp nhận dở dang, Kiều ngậm ngùi trong khổ đau trao lại cho em mối “tơ thừa”. Kiều hiểu được sự thiệt thòi của Vân khi nhận chắp mối duyên với Kim Trọng, bởi dù với Kiều đó là tình yêu đẹp thì với Vân đó chỉ là mối “tơ thừa” mà thôi. Hai từ mặc em được tác giả đặt cuối câu cho thấy Kiều đang đặt hết kỳ vọng vào Vân, mong Vân thay mình làm vẹn tròn nghĩa nặng với chàng Kim.

Lời đã nói ra nhưng nào dễ trút đi những nỗi niềm trong tâm khảm. Dằn lòng mình, Kiều tâm sự với em những kỉ niệm đẹp của mối tình với Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Điệp từ “khi” được sử dụng như càng khẳng định tình cảm sắt son của Kiều và Kim Trọng. Họ đã gặp gỡ, hẹn hò, cùng nhau ước nguyện, uống chén rượu giao bôi. Đang sống trong những kỉ niệm đẹp, Kiều lại trở về với hiện thực phũ phàng, cay đắng:

“Sự đâu sóng gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Cơn sóng gió ập tới bất ngờ khiến Kiều và gia đình lâm vào nguy biến. Giữa chữ hiếu với gia đình và chữ tình với Kim Trọng, nàng đã chọn chữ hiếu- bán mình để cứu cha và em. Nhưng vẹn đạo làm con, nàng đành buông tay với mối tình dang dở, trở thành kẻ phụ tình. Nàng nghĩ về tình yêu với chàng Kim, không muốn Kim phải chịu sự khổ đau như mình đang gặm nhấm, đành nhờ cậy Vân. Để thuyết phục em thêm, Kiều thủ thỉ:

“Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bốn câu thơ thốt lên bằng tất cả niềm hy vọng, sự mong cầu, bốn câu thơ như là một lời cầu xin tha thiết tự tận đáy lòng của Kiều. Sự thông minh của Kiều là khéo léo lấy niềm vui của mình được “thơm lây” nơi chín suối nhằm khiến Thúy Vân có không muốn cũng không thể chối từ. Hơn nữa, với Vân, những ngày tháng thanh xuân còn dài, Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian còn với Kiều thì bán thân coi như là chấm dứt tuổi trẻ, chôn vùi thanh xuân của mình. Những lý do của Kiều đưa ra vừa hợp lẽ, hợp tình khiến Vân nào thể không nhận lời nhờ cậy từ người chị đáng thương.

Khi trao “chút của tin” – chiếc vành với bức tờ mây, Thúy Kiều nhớ đến đêm thề nguyền trong quá khứ, vừa thương tiếc vừa xót xa khôn nguôi, Kiều ngậm ngùi với nỗi đau đớn tột cùng:

“Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.”

Trao kỷ vật cho em mà lòng đau như cắt, mâu thuẫn trong nội tâm nàng lên đến đỉnh điểm, tay muốn trao mà lòng không nỡ. Đó là sự mâu thuẫn giữa thân phận và nhân cách, giữa lí trí và tình cảm nơi Kiều. Có lẽ với nàng lúc này đây, tình chưa cạn mà đành phải dứt là nỗi đau khôn cùng, sống mà không có được hạnh phúc thì khác gì không tồn tại, vì vậy mà cái chết cứ ám ảnh trong tâm trí nàng.

Sáu câu cuối đoạn trích là lời độc thoại đầy thổn thức của Kiều. Nàng như quên hẳn mình đang trò chuyện với Vân mà sống trong tâm trạng của chính mình, lời day dứt thốt lên trong nỗi mặc cảm phụ tình:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao, phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Kiều gửi trăm nghìn lạy cho tình quân của mình là hành động tạ từ tha thiết, chân thành, là cái cúi chào tạm biệt trong nỗi đau chia ly. Tơ duyên tưởng sẽ dài lâu, bền đẹp nào ngờ “ngắn ngủi” giữa đoạn đường. Kiều trách phận mình bạc như vôi trầu, như hoa chảy bèo trôi giữa dòng, đành chấp nhận tình lỡ làng, xa cách. Thành ngữ “bạc như vôi” cất lên trong tiếng đau thương rỉ máu của Kiều nghe sao xót xa, bi ai đến phẫn cực.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ cho người khác. Nỗi đau mà nàng đang chịu vô bờ mà vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, lo lắng cho người thương. Những gọi Kim Lang cất lên trong tha thiết càng tô đậm thêm trái tim nhân hậu, trọng nghĩa trọng tình của Thuý Kiều.

Đoạn trích “Trao duyên” tuy không quá dài là một đoạn tích vô cùng đặc sắc. Qua đó là thấy được vẻ đẹp của một tấm lòng thuỷ chung, son sắt, thấu hiểu nỗi đau đớn giằng xé tâm can của người con gái trong tình yêu và cảm nhận được tính nhân văn cao cả trong từng tứ thơ mà Nguyễn Du sáng tạo nên.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 4

Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đoạn trích vô cùng xúc động, thể hiện tâm trạng xót xa, của nàng Thúy Kiều khi muốn trao lại tình cảm của mình với Kim Trọng nhường lại cho em gái của mình là Thúy Vân để bán mình chuộc cha và em trai đang bị giam trong ngục tù.

Tâm trạng đau đớn Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối lương duyên trời định của mình, từ bỏ những kỉ niệm ngọt ngào vẫn còn in đậm sâu sắc trong tâm can của nàng.

Mối tình Thúy Kiều và Kim Trọng là một mối tình vô cùng xứng đôi vừa lứa thể hiện một mối tình “Trai tài gái sắc” vô cùng viên mãn, nhưng vì tai biến của gia đình nên Thúy Kiều quyết định bán mình, hy sinh thân mình để gia đình cô được bình yên trở lại. Hành động “bán mình chuộc cha” thể hiện sự giằng xé trong tim của Thúy Kiều trước bên hiếu, bên tình vô cùng đau đớn.

Đoạn trích “Trao duyên” được thể hiện qua hình ảnh vô cùng ngược đời, khi Thúy Kiều làm chị nhưng lại quỳ lạy em mình là Thúy Vân, khi cô rơi vào tình thế là người phải nhờ cậy em mình. Những câu thơ thể hiện sự chua xót tận tâm trí của người con gái hiền lương, đoan trang, hiếu thuận Thúy Kiều.

Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Những câu nói như “cậy em” rồi thì “ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự nhờ vả vô cùng cấp thiết khẩn khoản của nàng Thúy Kiều dành cho em gái của mình là Thúy Vân, nên nàng mới tỏ vẻ vô cùng thật tâm, thể hiện một việc vô cùng quan trọng của nàng muốn nhờ cậy em gái của mình. Bởi tình duyên là việc đôi khi thật sự rất khó nhờ vả.

Trong hai câu thơ tiếp theo Thúy Kiều bắt đầu hồi tưởng lại mối tình duyên đang độ xuân thì tươi đẹp của mình với chàng Kim Trọng, thể hiện sự không nỡ của người con gái khi phải từ bỏ tình duyên của mình.

Thúy Kiều chua xót khi nghĩ tới Kim Trọng khi rồi đây khi mãn tang chú, chàng quay lại tìm nàng nhưng nàng đã đi xa mãi mãi, phiêu dạt tới phương trời nào nàng cũng không biết trước được tương lai của mình. Nhưng nàng yêu Kim Trọng nên khi nghĩ tới việc làm chàng đau khổ thất vọng vì mất người yêu thì trái tim nàng vô cùng đau đớn.

Thúy Kiều biết Thúy Vân không hề yêu Kim Trọng và ngược lại Kim Trọng cũng không có tình ý gì với em gái mình. Nhưng nàng lại muốn gắn kết se duyên cho hai người mà nàng yêu thương. Vì Kim Trọng là chàng trai vô cùng tuấn tú, có học thức biết lễ nghĩa là người tốt. Thúy Vân hiền ngoan thục nữ hai người thành một đôi thì Thúy Kiều có ra đi cũng yên lòng.

Chính vì vậy, Thúy Kiều đã kể lại những tình cảm trong lòng mình dành cho Kim Trọng như những lời tâm sự giữa hai chị em gái với nhau để Thúy Vân hiểu được ngọn ngành.

Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Xã hội phong kiến thực sự vô cùng tàn nhẫn bất công với những cô gái đoan trang đức hạnh như Thúy Kiều và nhiều người con gái khác. Cuộc sống gia đình nàng đang êm ấm bình yên nhưng lại bị sóng gió ập đến khiến gia đình cô tan nát, gia biến, nhìn cha và em trai bị bắt vào ngục thân làm chị cả Thúy Kiều không thể nào đứng nhìn mà phải nghĩ cách để cứu cha và em trai của mình.

Thể hiện một người con gái vô cùng hiếu thuận, có trái tim nhân hậu luôn hy sinh vì người khác. Việc trao duyên cho em là Thúy Vân thể hiện việc Thúy Kiều là người luôn biết nghĩ cho người khác, lo lắng chu toàn mọi việc. Cô không chỉ nghĩ tới cha mẹ, người thân trong gia đình mà còn thương Kim Trọng người thân của mình.

Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Thúy Kiều mong Thúy Vân nghĩ tình chị em trong gia đình những người thân máu mủ ruột già mà thương cho phận của chị mình, thương cho nỗi khổ mà Thúy Kiều đang phải gánh chịu mà chấp nhận lời đề nghị của mình. Thúy Kiều cũng nói rõ rằng nếu Thúy Vân chấp nhận lời đề nghị của mình thì dù thịt nát xương tan nơi xa xôi nàng cũng ngậm cười.

Trong đoạn trích “Trao duyên” Thúy Kiều đã mang kỷ vật hẹn ước định tình của mình với Kim Trọng trao cho Thúy Vân thể hiện một tấm chân tình mối tình tình chị duyên em từ nay đã được để lại cho Thúy Vân. Thúy Vân sẽ thay chị mình là Thúy Kiều chăm sóc lo lắng yêu thương người yêu của chị là Kim Trọng một hành động vô cùng nhân văn tình người của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.

Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai

Kỷ vật của Thúy Kiều là một chiếc trâm và một bức tờ mây, thể hiện ước vật hẹn ước của nàng Thúy Kiều với Kim Trọng đã từng nguyện thề sẽ chờ đợi nhau bên nhau trọn đời. Nhưng nay mọi thứ chỉ là kỷ niệm tồn tại trong trí nhớ ký ức của Thúy Kiều. Nàng đã trao lại những kỷ niệm của mình cho Thúy Vân thể hiện việc dứt tình cương quyết ra đi của nàng.

Dù chia tay nhưng trong tâm hồn của Thúy Kiều vẫn luôn nhớ tới Kim Trọng vẫn nặng lời thề nàng đã hứa với chàng. Chính vì vậy, Thúy Kiều đã đau đớn thốt lên rằng “Ôi kim lang hỡi kim lang thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây

Thúy Kiều đã gửi tới người tình của mình trăm lời xin lỗi khi phụ tình của chàng, không giữ trọn vẹn lời thề nguyên là người bội bạc phụ tình trước. Nhưng hoàn cảnh gia đình nàng khiến cho Thúy Kiều không có sự lựa chọn nào khác.

Nghệ thuật so sánh đặc sắc của Nguyễn Du khi so sánh phận của mình với vôi một thứ trắng bạc, có sức làm phai nhạt mài mòn nhiều thứ.

Đoạn trích “Trao duyên” là một đoạn tích vô cùng hay thể hiện tính nhân văn của nó nói lên tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi phải lựa chọn bên hiếu và tình, nàng đã chọn chữ hiếu, nhưng vô cùng xót xa khi nghĩ tới tình duyên của mình.

Tình duyên của người con gái nặng lời thề nhưng nay phải thành người bội bạc phụ tình người con trai mình đã hẹn ước, nàng thấy xót xa khi không giữ được lời thề hôm nào với Kim Trọng.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 5

Đại thi hào Nguyễn Du (1765- 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộcViệt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩnbị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việcmà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng

Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốndiễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽđược lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơduyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này màđáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mìnhnơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.”Sự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” “Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”

Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bóvới người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo p hong kiến khắc khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh củaKim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thât đau xót thay! Chữ• Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn• đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình.

Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”.

Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. Bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phậncủa người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.”Đau đớn thay phận đàn bà/Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!” kiếp số của họ: “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từngkhía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Hay như Mộng Liên Đường cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy”, quả thật không ngoa chút nào!

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 6

Mối tình đầu bao giờ cũng là mối tình khó quên nhất, mối tình ấy luôn dang dở nhưng những kỉ niệm, cảm xúc của nó sẽ in đậm mãi trong tâm trí của con người. Thúy Kiều và mối tình với Kim Trọng cũng vậy, sau khi quyết định bán mình chuộc cha Thúy Kiều không thể trọn duyên với chàng Kim nên nàng quyết định trao duyên cho Thúy Vân, nhờ em gái thay mình chắp mối tơ thừa này.

Bốn câu thơ đầu thể hiện tư thế, hình ảnh Kiều khi nhờ vả Thúy Vân nối duyên với người yêu của mình:

Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Lời nói “cậy em”, “ngồi lên cho chị” kết hợp với hành động “lạy” và “thưa” thể hiện sự nhờ vả khẩn khoản của Thúy Kiều. Nàng là chị mà lại hành động như vậy, nói năng như thế ắt hẳn nàng đang có một việc hết sức quan trọng muốn nhờ em gái mình. Mối tình kia đang độ đẹp thì bống dưng vì tai biến gia đình mà đứt gánh giữa đường. Mặc dù biết Thúy Vân và chàng Kim không hề yêu nhau nhưng Thúy Kiều mong Vân có thể dùng “keo loan” mà “chắp mối tơ thừa”. Rõ ràng câu thơ đã thể hiện sự chắp nối gượng ép, sự nhờ vả mà như ép buộc người bị nhờ vả.

Nhờ rồi nàng kể lể về hoàn cảnh của gia đình và của mình. Chàng Kim là mối tình đầu của Thúy Kiều, hai người đã gặp gỡ, đã thương mến nhau và cũng đã thề nguyền sống chết:

Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Xã hội phong kiến đầy rãy những bất công kia đã khiến cho nàng phải chịu đau khổ. Cha nàng bị bọn xấu vu oan và nàng là người con có hiếu nên phải chọn bán thân để chuộc cha. Chữ hiếu đã tròn thì cũng đồng nghĩa chữ tình kia không vẹn.

Nàng tự xét thấy Thúy Vân vẫn còn đang trẻ và cũng là người duy nhất nàng có thể tin cậy và yên tâm nếu gửi lại mối tình này:

Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Kiều mong Vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà đồng ý chuyện bén duyên với chàng Kim thay chị. Mai này dẫu Thúy Kiều không còn trên đời này nữa, thậm chí là thịt nát xương tan chốn người thì cũng sẽ vui lòng khi Vân chấp nhận mối tơ duyên này.

Nói đoạn Kiều lấy ra những kỉ vật tình yêu của nàng và Kim Trọng để trao cho Thúy Vân. Trao đi thì sẽ không còn là của mình nữa nhưng nàng vẫn mong Thúy Vân có thể coi đó là của chung của ba người:

Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tờ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai

Kỉ vật là chiếc thoa và bức tờ mây, đó là kỉ vật tình yêu của hai người khi mới gặp gỡ và quen nhau. Mai sau nếu đốt lò hương mà thấy gió hiu hiu trên cây lá thì Vân hãy hay là Kiều về. Bởi dẫu có chết đi thì hồn kia vẫn mang nặng những lời thề nguyền với chàng Kim Trọng. Như vậy có thể thấy Kiều đã hoàn toàn nghĩ tới cái chết sau khi quyết định bán mình chuộc cha và trao duyên cho em gái.

Nàng nhớ tới chàng Kim, nàng gọi chàng bằng tiếng lòng thương nhớ, quặn đau và như lời xin lỗi:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây

Nàng lạy trăm nghìn cái gửi cho tình quân của mình như thể hiện lời xin lỗi chân thành cũng như cái cúi chào tạm biệt trước khi chia ly. Tơ duyên tưởng chừng sẽ cùng nhau đi tới cùng trời cuối đất vậy mà ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Nghệ thuật so sánh thân phận bạc bẽo như vôi nhấn mạnh vào sự tủi phận của nàng Kiều.

Đoạn trích trao duyên quả là một đoạn trích hay và giàu ý nghĩa. Nó không những nói lên được tâm trạng, hoàn cảnh của Thúy Kiều mà nó còn thể hiện được bộ mặt xã hội phong kiến đầy những bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng, phụ bạc. Dù nàng có đi đâu, có ở đâu thì nàng cũng vẫn nhớ về Kim Trọng và mối tình cùng chàng.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 7

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là bức tranh xã hội phong kiến thối nát với những bất công đày đọa con người, đặc biệt là với người phụ nữ. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vương Thuý Kiều – một cô gái vừa tròn tuổi cập kê, nhan sắc và tài năng vẹn toàn. Trong một lần đi chơi xuân, nàng đã tình cờ gặp gỡ và bén duyên cùng Kim Trọng – chàng công tử hào hoa phong nhã. Hai người đã cùng nhau đính ước và thề nguyền dưới trăng. Thế nhưng, sóng gió gia đình ập tới, khiến nàng buộc lòng phải bán mình cứu cha và em trai. Vậy nên, vào đêm trước ngày ra đi, Thuý Kiều đã cậy nhờ người em gái của mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên đã thuật lại diễn biến của đêm trao duyên ấy đồng thời cũng diễn tả tâm trạng giằng xé của Thuý Kiều khi phải trao đi mối tình sâu đậm.

Đoạn trích Trao duyên nằm ở đoạn đầu phần hai Gia biến và lưu lạc trong tác phẩm, từ câu 723 đến câu 734 của tác phẩm Truyện Kiều. Sau đêm thề nguyền hẹn ước cùng nhau, Kim Trọng phải về quê để chịu tang chú. Đúng lúc đó, gia đình Kiều gặp gia biến, cha và em trai nàng bị bắt vào ngục. Để cứu được cha và em, nàng phải “bán mình” lấy bốn trăm lạng vàng. Thế nhưng, nhớ tới mối tình đầu sâu nặng với chàng Kim cùng lời hẹn thề dưới trăng hôm ấy, Kiều không muốn phụ tấm lòng của tình lang, vậy nên, nàng đã cậy nhờ Thuý Vân – em gái của mình thay mình kết duyên, trả nghĩa cho Kim Trọng để giữ đúng lời hẹn thề của hai người.

Chuyện tình yêu của Kiều và Kim Trọng là câu chuyện tình trong bí mật, chuyện riêng của Kiều, Thuý Vân cũng không hề hay biết. Thế nhưng giờ đây, khi nàng tâm sự với em chuyện tình cảm của mình thì lại là lời ngỏ để em thay mình trả nghĩa, nên duyên cùng người yêu của mình. Chỉ vậy thôi, nghe cũng xót xa, đau đớn vô cùng! Thuý Kiều đã mở lời với em gái mình trong sự e ngại, lấp lửng, “rào trước đón sau”:

“Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Vốn là chị, là bậc bề trên với Thuý Vân, thế nhưng, mỗi lời nói, hành động của Kiều lúc này lại như là một kẻ bề dưới đang khẩn cầu em gái mình. Đầu tiên, Kiều mở lời bằng hai tiếng “cậy em”. “Cậy em” chứ không phải “nhờ em”, một từ “cậy” thôi nhưng mang sức nặng vô cùng, mang trong đó là sự khẩn thiết vô hạn của nàng. Thuý Kiều “cậy” nhờ em gái, không biết em có “chịu lời” hay không, nhưng câu nói của nàng như có một sức nặng khiến cho Thuý Vân khó có thể chối từ. Tiếp đó, Kiều còn dùng hành động “lạy rồi sẽ thưa” để tỏ bày sự kính cẩn đối với Vân. Đây là hành động bất thường, mang tính trang trọng, nghiêm túc vô cùng. Bởi Kiều là chị sao có thể quỳ lạy với em gái mình? Thế nhưng, nếu xét ở trường hợp này thì điều đó cũng là lẽ thường tình bởi Kiều đã xem Vân như ân nhân của mình, là người cứu vớt duy nhất cho tình yêu của đời nàng. Em gái cũng là nơi duy nhất mà Kiều có thể gửi gắm tấm chân tình và bằng hành động, lời nói như thế, Thuý Vân sẽ khó lòng có thể từ chối lời nhờ cậy của chị gái mình. Ở đây, người đọc có thể thấy được sự khéo léo, sự tinh tế trong cách nói chuyện của Kiều, có thể thấy, nàng quả là một người con gái vô cùng thông minh, sắc sảo, dù trong lòng nàng đang bị giằng xé bởi bao nhiêu nỗi đau, nàng vẫn tỏ ra là một người thiếu nữ vẹn toàn.

Sau khi bày tỏ tấm lòng mình với sự thành kính với em gái, Kiều lại tiếp tục kể cho em nghe về mối tình đầu của mình:

“Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Chuyện tình cảm của nàng với chàng Kim vốn là một câu chuyện tình yêu tuyệt đẹp, nàng tài sắc còn chàng thì hào hoa. Thế nhưng, sóng gió đã khiến cho câu chuyện tình yêu vừa chớm nở ấy phải vụt tắt, phải “đứt gánh tương tư” giữa chặng đường tuổi xuân. Mặc dù có nỗi khổ riêng và vô cùng đau khổ nhưng việc nàng phụ Kim Trọng là một sự thật không thể chối cãi, thế nên Kiều đành nhờ Vân “chắp mối tơ thừa” này thay cho nàng. Khi thấy Thuý Vân còn đang ngơ ngác, chưa hiểu mọi sự thì Kiều lại lên tiếng kể về mối tình của mình, mong em gái sẽ hiểu cho lý do mà nàng làm như thế mà chấp nhận mối duyên mà Kiều trao gửi:

“Kể từ khi gặp chàng Kim , Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Nàng kể về tình yêu của mình, từ lúc gặp gỡ cho tới lúc hẹn thề, tất cả đều đẹp như mơ. Có lẽ trong khoảnh khắc này, Kiều cũng đã mỉm cười hạnh phúc, bởi nàng đã có những phút giây tươi đẹp bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng, càng hạnh phúc bao nhiêu thì nàng lại càng đau đớn bấy nhiêu bởi “sự đâu sóng gió bất kì”. Sóng gió ập tới quá bất ngờ khiến cho nàng buộc lòng phải rời xa tình yêu đầu thắm thiết, nàng chẳng có cách nào vẹn toàn cả chữ hiếu và chữ tình. Vậy nên, nàng buộc lòng phải phụ tình Kim Trọng, nhưng Kiều là người hiểu đạo nghĩa, cũng là người con gái thấu tình đạt lý, nên trong giờ phút này, mặc dù đau xót, nhưng chỉ có em gái là người có thể giúp nàng san sẻ tâm tình cũng như trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều viện tới lý do rằng “ngày xuân em hãy còn dài” tức là thanh xuân của Vân còn đang rực rỡ, Vân hãy vì nàng mà nhận lấy mối duyên này. Được như thế thì dù có chết, Kiều cũng “ngậm cười” nơi chín suối. Những câu nói mang đầy những nỗi tủi hờn, những niềm đau xót và cả dự cảm về một tương lai chẳng lành đầy oan trái của Kiều như thế làm sao một người làm em như Vân lại có thể từ chối đây?

Tình yêu là những lời hẹn thề, là những kỉ niệm và kỉ vật trao cho nhau. Kỷ vật là thứ mà mỗi khi nhớ người tình, ta thường hay đem ra ngắm để “nhìn vật mà nhớ người”. Thế nhưng, giờ đây, Kiều đã quyết định trao đi tình yêu của mình, nên nàng cũng đành phải trao đi kỷ vật tình yêu mà nàng trân trọng vô cùng:

“Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên! Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Trao đi kỷ vật tình yêu cũng là trao đi hết tất cả những gì còn lại của mối duyên này. Điều này cho thấy Kiều không chỉ trao duyên cho Vân vì chút nợ ân tình với Kim Trọng mà còn là trao đi bằng cả sự trân trọng tình yêu của mình. Nàng luôn giữ những kỷ vật này bằng sự nâng niu, trân quý thiêng liêng, nhưng giờ đây khi đã nhờ cậy em gái trả nghĩa cho tình lang của mình, nàng muốn trao cả tín vật tình yêu của nàng cho trọn vẹn, dù rằng trong lòng nàng đau khổ và giằng xé bao nhiêu. “Chiếc vành với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”, tất cả nàng đều trao lại cho em trong sự nuối tiếc, day dứt, dằn vặt. Chẳng vậy mà Kiều dặn em rằng: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Nàng trao duyên, trao đi tín vật tình yêu, thế nhưng trong lòng nàng là biết bao sự giằng xé. Tình duyên giờ là của Vân, thế nhưng tín vật này là của chung ba người. Phải chăng, Kiều nuối tiếc, trăn trở, đau khổ và giằng xé vô cùng trước nỗi đau phải trao đi tình yêu, nàng vẫn còn muốn giữ lại cho mình chút gì đó về mối tình đậm sâu này chăng?

Hơn thế, Kiều còn dặn dò em gái đừng quên mình, quên người chị “bạc mệnh” này, khi nhìn những kỷ vật này, hãy nhớ tới nàng. Những lời nói chứa đầy sự ảm đạm, sự thê lương, như lời dặn dò của một người sắp rời xa thế gian. Ẩn chứa trong đó dường như là sự dự cảm không lành của Kiều về cuộc đời sóng gió của mình phía trước, sự tuyệt vọng với số phận của chính mình.

Dù rằng Kiều ra đi là để theo chồng, thế nhưng, những câu nói của Kiều lại như một lời dặn dò em gái trước khi nàng rời xa thế giới này:

“Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ gió cây, Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt, khuất lời, Rảy xin chén nước cho người thác oan.”

Những câu nói của Kiều chứa đầy nỗi tuyệt vọng dù rằng nàng chỉ đang bán thân làm lẽ cho người. Có lẽ bởi vì với nàng, tuổi xuân đã chấm dứt, bao nhiêu mơ ước, khát khao đều bị chôn vùi. Nhớ về số phận của Đạm Tiên mà nàng đã vô tình bắt gặp trong tiết thanh minh, nàng càng có dự cảm không lành cho số phận của mình. Trong tâm nàng, tất cả mọi hi vọng vụt tắt, chỉ còn nỗi đau mất đi tình yêu, sự tăm tối khi nhìn về tương lai phía trước, có lẽ những điều đó đã khiến nàng nghĩ về cái chết nhiều hơn là một cuộc sống bình thường. Thế nhưng, dù là trong đau khổ, trong dự cảm chẳng lành như thế, Kiều vẫn mang Vân có được một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, và dù nàng có ở thế giới bên kia, nàng cũng chỉ xin Vân “rảy xin chén nước” cho người chị bạc mệnh này. Từng lời nói của Kiều có thể cho thấy nàng là người con gái hết sức thấu hiểu lí lẽ, hết sức thông minh, chu toàn mọi sự, dù trong đau khổ, xót xa, giằng xé vì phải trao tình yêu của mình, nàng cũng không hề oán trách, không hề tức giận.

Tất cả những điều cần dặn dò, Kiều đã dặn lại hết cho Vân. Sau đó, Vân rời đi, còn lại mình Kiều trong căn phòng, giờ đây, mọi cảm xúc trong tâm nàng mới bùng lên thật mạnh mẽ. Những nỗi đau đớn, xót xa giờ đây mới được bộc lộ ra thật rõ ràng, vỡ òa trong tức tưởi:

“Bây giờ trâm gãy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phân sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiểu hiểu tình thế mà mình đang phải đối mặt, nàng chấp nhận số phận rằng nàng và Kim Trọng phải rời xa nhau “trâm gãy bình tan”, nàng phải phụ lòng chàng. Vốn tưởng là một chuyện tình đẹp như mơ với đôi trai tài gái sắc, thế nhưng chỉ vì một cơn sóng gió đã phá huỷ tất cả mọi hy vọng của nàng. Những phút giây hạnh phúc chỉ là chút “tơ duyên ngắn ngủi”, đành gửi lại tình lang của mình. Trái tim Kiều quặn thắt trong đau đớn, những giọt nước mắt xót xa cho mối duyên tình vừa chớm đã đành bạc mệnh lìa đời. Đứng giữa bên hiếu bên tình, Kiều cũng chỉ đành “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, dù rằng nàng vô cùng tiếc nuối cũng vô cùng hổ thẹn và xấu hổ khi đã bội ước với chàng. Dù đã nhờ cậy Thúy Vân trả duyên cho Kim Trọng, nhưng Kiều vẫn cảm thấy có lỗi vô cùng. Chỉ từng ấy thôi cũng có thể thấy tình cảm mà nàng dành cho Kim Trọng sâu sắc và thắm thiết đến nhường nào, với nàng, tình yêu ấy vô cùng thiêng liêng và quý giá, phải trao đi là sự tiếc nuối, đau đớn nhất trong đời của nàng.

Nếu như từ đầu đến giờ, ta chưa từng thấy Kiều có một câu oán trách số phận trước mặt Vân thì giờ đây Kiều lên tiếng oán trách số phận mình:

“Phân sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Nàng oán trách nhưng cũng đành bất lực trước sự ngang trái của xã hội, của số phận mình. Một cô gái tài sắc vẹn toàn như nàng nhưng giờ đây cũng đành xót xa, buông xuôi số phận trong bế tắc, đau khổ và tủi nhục khi phải làm phận thiếp lẽ cho người, phải tự tay cắt đi mối nhân duyên đẹp đẽ. Nỗi đau xót vô bờ ấy cùng với nỗi đau uất ức khỉ phải chia lìa Kim Trọng đã khiến nàng phải thốt lên trong vô vọng:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Tiếng kêu thảm thương ấy là lời mở đầu cho chuỗi mười lăm năm lưu lạc trong biến cố, lênh đênh vô định của cuộc đời người con gái mang tên Vương Thuý Kiều.

Đoạn trích Trao duyên là trích đoạn mở đầu của cuộc sống lưu lạc của Thuý Kiều sau này. Bằng tài năng sử dụng ngôn từ của mình, Nguyễn Du đã thể hiện cho chúng ta hình ảnh của một Thuý Kiều thông minh, sắc sảo hơn người qua từng câu nói thuyết phục em gái khi trao duyên, đồng thời cũng làm rõ tâm trạng giằng xé phức tạp của nàng khi buộc phải trao đi mối duyên đầu. Qua đó, ta hiểu được tình cảm sâu đậm của Kiều dành cho Kim Trọng cũng như những dự cảm không lành cho tương lai của mình. Đoạn trích cũng làm nổi bật tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi ông đã cảm thông với số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ và trân trọng những phẩm chất đáng quý của họ.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 8

Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực, đầy đủ qua đoạn trích Trao duyên.

Trao duyên được trích trong phần gia biến và lưu lạc, sau khi gia đình gặp cơn tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy Vân vào trao duyên mình cho em với Kim Trọng. Để thuyết phục em đồng ý thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thúy Kiều nhờ cậy hết sức chân thành:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, hết sức cẩn trọng để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng rất hiểu cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện rất đột ngột với Thúy Vân, đó là chuyện không phải dễ dàng có thể chấp nhận. Là cậy chứ không phải bất từ ngữ nào khác, cậy gửi gắm sự tin tưởng, sự trông mong tha thiết của Kiều với em. Chịu lời – nhận làm một việc với thái độ miễn cưỡng, nàng hiểu cho tình cảm của Thúy Vân khi phải nghe những điều mình chuẩn bị giãi bày. Cặp từ lạy, thưa thoạt nhìn có vẻ phi lí trong lễ giáo phong kiến vì chị làm sao có thể lạy, thưa với em. Nhưng nó lại là hợp lý trong tư thế người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách dùng từ của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh sắp nói.

Để thuyết phục em, Kiều đã đưa ra lí lẽ về tình thế éo le của bản thân: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc lại chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng hẳn lòng Kiều cũng nhói đau, hàng loạt hình ảnh thể hiện hình ảnh tình yêu đôi lứa được nói đến: quạt ước – tặng quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, chén thề – uống rượu thề nguyền trung thủy. Những lời hẹn thề sắt son, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi nào ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên lỡ dở. Hai câu thơ sau đã chỉ rõ nguyên nhân khiến Thúy Kiều phải bội ước. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình, Thúy Kiều lúc này bị đặt giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, chọn chữ hiếu thì nàng bội nghĩa tình, lời hẹn thề với Kim Trọng, nhưng nếu trọn chữ tình thì lại trở thành kẻ đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

Trong đau đớn, dằn vặt nàng vẫn hết sức bản lĩnh, bình tĩnh để đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, dùng keo loan để chắp vá cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” như nhấn mạnh vào nỗi đau đớn của Thúy Kiều nhưng đồng thời cho thấy sự tội nghiệp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao tủi hờn trong chuyện tình duyên này. Kiều luôn tỏ ra là người rất am hiểu tâm lí và tình thế của Thúy Vân, nếu ở trên là mặc em, gần như giao phó, thì câu thơ dưới lại như một lời mong mỏi, tha thiết:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”.

Thúy Kiều mong Vân vì tình chị em ruột thịt mà em có thể trả nghĩa cho Kim Trọng thay mình, nếu vậy:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Trong nàng bao giờ cũng vậy, luôn có dự cảm không lành cho tương lai của chính mình. Đồng thời với lập luận như vậy kiến Vân không nỡ từ chối lời đề nghị của mình. Bằng lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo vừa cho thấy sự thông minh của Thúy Kiều, vừa thực hiện được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng. Sau lời nhờ cậy em, Thúy Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng đều được nâng niu, giữ gìn, mỗi kỉ vật gắn liền với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ quên. Là chiếc vành mà Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều, là bức tờ mây – thư từ với những lời yêu thương họ dành cho nhau.

Nhưng đó đâu phải đã hết họ còn có chung những kỉ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và giờ đây Thúy Kiều trao lại hết cho em, nàng trao kỉ vật cũng đồng nghĩa với việc trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật vẫn có sự mâu thuẫn, giằng xé giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao hết cho em, nhưng tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nàng vừa muốn trao, vừa muốn giữ, giữ lại một chút gì đó cho bản thân. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, bởi trong tình yêu nhu cầu sở hữu rất cao, mấy ai có đủ dũng khí để trao duyên, vậy mà, Kiều đã phải làm, nên hành động muốn giữ lại một chút của chung cho mình là hoàn toàn dễ hiểu và hợp quy luật tâm lí.

Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Thúy Kiều rõ ràng có sự ích kỉ, mềm yếu nhưng chính trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng rất sâu nặng và trong giây phút trao duyên này nàng rất đau đớn, mất mát, hụt hẫng. Trao kỉ vật đau đớn, xót xa bao nhiêu thì những lời dặn dò chuyện mai sau càng quặn thắt bấy nhiêu:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này”.

Sau này, mỗi khi đốt hương, đánh đàn, linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng chỉ mong Thúy Vân hãy rưới giọt nước để giải oan cho chị “rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Ta thấy rằng ở bất cứ đâu trong Kiều cũng luôn mang khao khát hạnh phúc, sum họp: Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu, đền ghì trúc mai. Dù nàng có bị vùi dập thịt nát xương mòn nhưng lòng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng. Bởi vậy khi Kim Trọng và Thúy Vân được hưởng hạnh phúc thì Thúy Kiều cũng sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy sự tiếc nuối và đau khổ của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng nàng dành cho Kim Trọng. Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với thực tại đau đớn, xót xa: tình yêu dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn.

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”

Thành ngữ “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ trong tình yêu cũng là sự tan nát trong cõi lòng Thúy Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi đau thân phận:

“Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim lang, hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Hai từ ôi, hỡi trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời gọi tha thiết, khắc khoải và nỗi đau đến tột cùng của Kiều. Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan, bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 9

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông sống trong giai đoạn lịch sử đầy bão táp , cái xã hội bị đồng tiền chi phối. Trong cái xã hội ấy Nguyễn Du đã chứng kiến rất nhiều cảnh bất công cũng như cái xã hội thối nát bấy giờ. Ông có cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người phụ nữ lúc bấy giờ. Ông viết ra rất nhiều tác phẩm nổi tiếng để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, đáng thương với người phụ nữ bất hạnh. Trong đó có kiệt tác “Truyện Kiều” trong truyện có đoạn trích “Trao duyên” mang âm hưởng bi kịch của sự đứt đoạn một tình yêu đẹp. Đoạn trích miêu tả tình cảnh trớ trêu của Kiều khi phải trao duyên cho em. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan vỡ, mình phải buộc phụ lòng Kim Trọng

Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến với gia đình Thúy Kiều, Kiều phải buộc bán thân để chuộc cha và em. Đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Đem tình yêu của mình cho người khác là một bất đắc dĩ, vì Kiều không thể làm khác hơn vì đã lỡ hứa hẹn với chàng Kim. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, trao duyên trong hoàn cảnh Thúy Kiều là một truyện khó nói và tế nhị vì Vân chưa biết gì về mối tình của Kiều và chàng Kim. Bốn câu thơ thể hiện tư thế, hình ảnh Kiều khi nhờ Vân nối duyên với người yêu mình:

“Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Những điều Kiều sắp nói với vân thực sự quan trong và thiêng liêng. Đó là “cậy, lạy, thưa” thể hiện niềm tin chỉ có Vân là người mà Kiều tin cậy nhất. “Cậy” có sức nặng của niềm tin. Ở đây tác giả dùng “chịu lời” chứ không phải nhận lời là bắt người mình tin phải nghe theo và khó lòng từ chối. “Ngồi lên, lạy, thưa” là những thái độ của bề trên, những người có ơn với mình.

Từ những câu thơ trên ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát thì Kiều vẫn dùng những lời lẽ đoan trang tế nhị thể hiện sự nhờ vả khẩn khoản của Kiều.

Kiều đau đớn khi tâm sự với em về mối tình của mình. Hình ảnh “quạt ước, chén thề” điệp từ “khi” diễn tả tình cảm gắn bó thân thiết, sâu sắc. “Đứt gánh tương tư” là sự mong manh, tan vỡ đột ngột, bất ngờ. Kiều xin em chắp nối tơ thừa của mình trả nghĩa cho Kim Trọng. “Mặc em” là phó mặc, ủy thác vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Vân phải nhận lời với mình:

“Kể từ khi gặp chàng Kim , Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Trong cái xã hội phong kiến đầy rẫy sự bất công khiến cho nàng phải chịu khổ. Cha nàng bị kẻ gian hãm hại phận làm con nàng phải bán mình chuộc cha. Chữ hiếu làm tròn thì đồng nghĩa với chữ tình kia không vẹn

Nàng tự thấy Thúy Vân vẫn đang còn trẻ và là người duy nhất nàng tin cậy được nên yên tâm gửi lại mối tình này cho em:

“Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Kiều mong Vân xốt tình chị em máu mủ ruột già mà đồng ý chuyện mình bén duyên với Kim Trọng. Mai kia Kiều không còn trên đời nữa thì cũng vui lòng khi Vân chấp nhận mối tơ duyên này.

Đến đây Kiều lại đưa ra những kỉ vật tình yêu giữa nàng với Kim Trọng để trao cho Vân. Trao đi tì sẽ không còn là của mình nữa nhưng Kiều vẫn mong em coi đó là kỉ vật của ba người:

“Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên! Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ gió cây, Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.”

Chiếc vành, bức tờ mây gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của Kim-Kiều. Phím đàn, mảnh hương nguyền trở thành ngày xưa, quá khứ. Những kỷ vật quý giá thiêng liêng chứng minh cho tình yêu đẹp. Trao kỷ vật đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều khẳng định giữa tình cảm và lý trí , nhân cách và thân phận của Kiều. Tâm trạng của Kiều chứa đầy mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lý trí và tình cảm

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phân sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều hình dung ra viễn cảnh đối lập nhau. Một bên là Thúy Vân và kim Trọng sum họp và một bên là oan hồn bạc mệnh của nàng. Dù nàng có chết thì mối tình của nàng với chàng Kim vẫn còn nặng. Trong lúc này thì sự bối rối, sự oan của mình làm cho Kiều không còn nghĩ tới mình đang nói chuyện cho mình nghe. Kiều tiên đoán trước cảnh tượng oan nghiệt, xót xa đang đợi mình phía trước.

Tình yêu mất xem như kiều đã chết, cái chết trống trải khi không có tình yêu, đó là cái chết tâm hồn. Tiếng nói thương xót cho thân phận của con người thiết tha với tình yêu. Chuyển từ đối thoại với em sang độc thoại nội tâm. Trao kỷ vật mà lòng thổn thức, đau lòng

Nàng lạy trăm nghìn cái gửi cho tình quân của mình như thể hiện lời xin lỗi chân thành cũng như cái cúi chào tạm biệt trước khi chia ly. Tơ duyên tưởng chừng sẽ cùng nhau đi tới cùng trời cuối đất nhưng mà ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Đoạn trích trao duyên quả là một đoạn trích hay và giàu ý nghĩa. Nó không chỉ nói lên được tâm trạng của Thúy Kiều mà còn thể hiện được bộ mặt xã hội phong kiến đầy những bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng. Dù nàng có đi đâu thì nàng cũng vẫn nhớ về mối tình cùng chàng Kim Trọng.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 10

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những kiệt tác nổi bật góp phần làm nên diện mạo, đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm với 3254 câu thơ lục bát viết về cuộc đời chìm nổi của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Nhiều đoạn trích của thi phẩm được đưa vào chương trình SGK để dạy và học trong nhà trường, Trao duyên là một trong những đoạn trích như vậy. Trích đoạn đã tái hiện lại bi kịch tình yêu đầy đau đớn Thúy Kiều, qua đó thể hiện sự trân trọng, đồng cảm của tác giả Nguyễn Du với tình duyên dang dở và cuộc đời đầy sóng gió của nàng Kiều. Mười hai câu đầu đoạn trích đã thể hiện rõ điều đó.

Thúy Kiều và Kim Trọng tình cờ gặp nhau, họ đem lòng cảm mến và dành cho nhau tình cảm đặc biệt. Vượt qua những quy định của lễ giáo phong kiến, Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tới gặp mặt, kết tóc thề nguyện cùng Kim Trọng. Tình yêu của họ là nhân duyên tiền định, vốn sẵn đẹp đẽ và có thể dài lâu, thế nhưng, phận đời trớ trêu, dòng người xô đẩy, Kiều đành ngậm ngùi quyết định “trao” lại mối duyên của mình cho Thuý Vân. Sau một đêm trắng suy nghĩ, Kiều chua xót nhờ cậy em:

“Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

“Cậy” ở đây là cậy nhờ, là lời thỉnh cầu, trông mong được giúp đỡ. Từ “cậy” chứa đựng cả niềm hy vọng, tin tưởng của người nhờ vả vào người được nhờ. Từ “chịu” thể hiện sự khẩn thiết, Kiều như đang van nài, cầu xin em, đặt Thuý Vân vào tình thế khó lòng từ chối. Hành động “lạy”, “thưa” kết hợp cùng lời nói của Kiều cho thấy được sự khéo léo, chân thành của nàng khi nhờ cậy em. Kiều là chị, Vân là em, lẽ thường thì chị chẳng lạy thưa em bao giờ nhưng trong tình cảnh này Kiều lại làm như vậy lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc bởi lúc này Kiều đang là người nhờ vả, đang chịu ơn em. Nàng không muốn phụ tấm chân tình của Kim Trọng nhưng cũng hiểu rằng việc trao lại mối duyên dang dở sẽ mang đến sự khó xử, thiệt thòi cho Thúy Vân.

Tình yêu vốn là tình cảm thiêng liêng, khi yêu chẳng ai muốn san sẻ tình yêu của mình cho người khác, thế nên hành động trao duyên của Thúy Kiều cũng không hề dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em, mong em nhận lời, nàng tâm sự cùng Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Trong nỗi đau xót của tình yêu đứt gánh, keo loan ngỡ trăm năm vậy mà đành nhớ em “chắp mối”. Hai tiếng “mặc em” cất lên là cả sự tin tưởng, phó mặc cho Vân, mong cầu Vân sẽ cùng chàng Kim kết lại keo loan bền chặt ấy. Trong nỗi đau chia sẻ tình yêu, bao kỉ niệm tươi đẹp của khoảng thời gian hạnh phúc ùa về trong tâm trí. Điệp từ “khi” kết hợp với các cụm động từ “gặp chàng Kim”, “quạt ước”, “chén thề” cho thấy tình yêu bền chặt, thắm thiết của Kiều- Kim. Nhưng hiện thực phũ phàng, trêu ngươi, tình yêu đành dang dở vì sóng gió ập đến với gia đình nàng. Kiều đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, thân phận trớ trêu:

“Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Để trọn đạo làm con, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em, gìn giữ ấm êm gia đình. Giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều chọn chữ hiếu bởi công lao dưỡng dục nghìn nặng trăm sâu, Kiều nào thể dứt bỏ. Nàng không đành lòng lựa chọn hạnh phúc riêng mà quay lưng với biến cố của gia đình. Bởi thế mà nàng đau đớn khôn nguôi, tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đây thôi lại vội vàng vỡ tan, trái tim nàng như rỉ máu vì tình yêu tan vỡ, xót xa, đau đớn vô cùng. Cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng cũng là để lòng nàng được với chút bận tâm khi đang trong nỗi mặc cảm của một kẻ phụ tình. Hết lòng thuyết phục Vân, nàng mong em gái mình có thể hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu, dẫu biết điều đó thật khó cho Vân:

“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Bằng sự thông minh, suy nghĩ thấu đáo của mình, Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ để thuyết phục Vân. Trước hết là Vân có thanh xuân, Vân còn trẻ, Vân sẽ có thời gian để cùng Kim Trọng tìm hiểu mà kết tóc se duyên trong đoạn cuộc đời còn lại. Hơn nữa, Kiều và Vân lại là chị em ruột thịt, Vân nào có thể đành lòng nhìn chị khổ đau, dằn vặt trong mặc cảm tội lỗi phụ bạc tình yêu. Cuối cùng, nàng nói về cái chết của bản thân, một niềm vui tìm thấy trong nỗi đau của cái chết “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, nếu được Vân chấp thuận thì dù có phải chết, Kiều cũng an lòng mà nhắm mắt. Từng lời lẽ của Thuý Kiều thốt ra đều hợp lẽ, hợp tình, Kiều dằn lòng gặm nhấm nỗi đau thương, chịu thua thiệt về bản thân mình, chỉ mong Vân giúp mình cùng Kim Trọng kết duyên để bù đắp cho người mình thương. Mặc cảm tội lỗi dường như đang bao vây lấy tâm trí và trái tim nhỏ bé nơi Kiều. Lời nhờ cậy và thuyết phục Vân của Thuý Kiều thật cảm động, chân thành , tha thiết biết bao.

Bằng 12 câu thơ lục bát cùng cách sử dụng ngôn từ tinh tế, chọn lọc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công bi kịch tình yêu và tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều trong cơn nguy nan của số phận.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 11

Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam, tác giả của thi phẩm đã đi sâu và luôn tồn tại trong tâm thức người đọc khi nhắc đến ông: “Truyện Kiều”. Truyện Kiều là sáng tác chữ Nôm đặc sắc từ nội dung đến nghệ thuật nhưng ấn tượng nhất đối với tôi đó chính là đoạn trích “Trao duyên” nằm trong tác phẩm nghệ thuật này.

Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của nam nữ như trong ca dao xưa ta vẫn thường gặp. Có đọc mới hiểu, trao duyên ở đây nghĩa là gửi gắm tình cảm, duyên phận của mình cho một người khác, nhờ người khác chắp nối tiếp tình cảm dở dang của mình. Như trong sự trao duyên của Kiều, hoàn cảnh thật éo le, cay đắng!

“Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Một sự nhún nhường gần như van vỉ, nàng phải lạy em mình như lạy một vị ân nhân, một bậc bề trên. Không phải là “nhờ” mà là “cậy”, từ ” cậy” mang bao nhiêu sự thiêng liêng, lòng tin tưởng kèm với “lạy” và “thưa”, tất cả gộp lại tạo nên sự thay bậc đổi ngôi giữa hai chị em. Và điều đó trở nên thật tài tình, Nguyễn Du như đọc thấu được nỗi lòng nhân vật.

“Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

“Gánh tương tư” thật đâu có nhẹ nhàng gì. Nhưng gánh nặng vật chất thì còn có thể san sẻ, nhờ người khác giúp được chứ “gánh tương tư” mà nhờ người khác giúp la điều hiếm thấy xưa nay….Chắc hẳn nàng đã ở trong một tình cảnh khó khăn không còn cách nào khác là phải nhờ đến em “chắp mối tơ thừa”. Từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân vì trên hết tình máu mủ ai nỡ từ chối nhau?. Trong tình cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái

“Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái.

Tình cảm Kiều Kim sâu nặng là thế, mặn mà là thế, “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” hỏi sao nàng Kiều không khỏi đớn đau, tê tái. Lòng nàng như ngàn kim đâm, rỉ máu xót xa lay động sâu tâm hồn người đọc. Nhưng khi sóng gió gia đình đến, cha bị bắt đi, nay chữ “hiếu” với chữ “tình” không thể song song… Quyết định chọn chữ “hiếu” bán mình chuộc cha là hy sinh chữ “tình”, coi như linh hồn nàng đã mất đi một nửa…Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu-tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo

“Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói ngày xuân em hãy còn dài, đau đớn biết chừng nào!. Thuyết phục em thật khéo léo bằng tình chị em, tình máu mủ ruột thịt, Thúy Kiều vô hình chung đã khiến Thúy Vân không thể nào chối từ. Lời lẽ của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao chàng Kim có được hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác, chẳng lo rằng mình có thể sẽ trải qua bao nhiêu cay đắng đến “thịt nát xương mòn”. Thật là một cô gái có đức hy sinh lớn lao. Qua đó Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân đạo đáng trân trọng ở Kiều…

“Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.”

Trao kỉ vật của mình và chàng Kim cho em, thật sự lòng nàng vẫn cắn rứt lời thề nguyền đêm trăng của mình và Kim Trọng. Nguyễn Du dùng hai hình ảnh đối lập “nên vợ nên chồng”, “người mệnh bạc” để gợi nỗi thương tâm, băn khoăn, chua xót của Kiều.

Toàn bộ đoạn trích là lời thoại của Kiều nói với Thúy Vân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng như đang nói với Kim Trọng chứ không còn nói với Thúy Vân nữa. Ý nghĩa sự chuyển đổi đối tượng cho thấy khả năng Nguyễn Du nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng của nhân vật, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du. Ngoài ra ta có thể thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du đối với nàng Kiều trong từng lời nói…

Đoạn trích “Trao duyên” thật sự đã làm rung động trái tim của không chỉ riêng tôi mà hẳn đã đi vào lòng không ít các bạn đọc khi xem “Truyện Kiều”.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 12

Đoạn trích thể hiện được tình yêu nồng nàn, mãnh liệt và tha thiết của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng: nỗi đau khổ xót ca, tuyệt vọng, tâm trạng bi kịch của Thúy Kiều trong đêm trao duyên và phẩm chất cao đẹp, giàu đức hi sinh của Thúy Kiều. Qua đoạn trích Nguyễn Du đã thể hiện tấm lòng nhân ái sâu sắc của ông trước những khổ đau bất hạnh của con người.

Đoạn trích cũng là một minh chứng cho tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật được miêu tả sinh động, sâu sắc với diễn biến tâm lí phong phú và phức tạp đầy mâu thuẫn.

Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng nhận được tin chú mất và phải về chịu tang chú ở Liễu Dương. Tai họa ập đến với gia đình Thúy Kiều. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em bị bắt đánh đập tàn nhẫn. Kiều buộc phải bán mình để chuộc cha và em. Mọi việc đã tạm thu xếp xong xuôi nhưng mối tình nàng với Kim Trọng bị lỡ dở. Trong đêm cuối cùng ở lại nhà, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng.

Đoạn trích Trao duyên có thể chia làm 2 đoạn:

Đoạn 1: 10 câu đầu: Thúy Kiều trao duyên nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng

Đoạn 2: Phần còn lại: Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều sau khi trao duyên.

Nội dung đoạn trích: Đoạn trích miêu tả thái độ của Thúy Kiều khi nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng đồng thời miêu tả diễn biến tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng đầy bi kịch của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ.

Đem tình yêu của mình trao cho người khác là một chuyện bất đắc dĩ. Trong cảnh tai biến của gia đình, Kiều không còn cách lựa chọn nào khác. Chuyện vợ chồng, nhân duyên là chuyện hệ trọng của cả đời người. Trao duyên là chuyện tế nhị, khó nói nhưng Kiều đã chọn cách ứng xử thông minh và khéo léo để Thúy Vân buộc phải chấp nhân lời thỉnh cầu của nàng.

Ngay từ đầu, Kiều đã lựa chọn cho những lời lẽ thuyết phục Thúy Vân “Cậy em, em có chịu lời / Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa “. Lời nhờ cậy được nói với giọng điệu tha thiết, trang trọng, báo hiệu một chuyện không bình thường. Lời lẽ vừa trông cậy vừa nài ép. Nguyễn Du dùng từ rất chính xác và rất tinh tế. “Cậy” chứ không phải là nhờ vì từ “cậy” ngoài ý nhờ còn hàm chứa hi vọng tha thiết của người đi nhờ, người được nhờ là chỗ dựa tinh thần, là chỗ trông đợi, tin tưởng duy nhất người đi nhờ. “Chịu lời” chứ không phải là nhận lời. Nhận lời là tự nguyện còn “chịu lời” là nghe lời một cách miễn cưỡng, bất đắc dĩ. Kiều hiểu tình thế khó khăn, tế nhị của Vân bởi Vân không yêu Kim Trọng. Tình cảnh ấy khiến Vân chỉ có thể “chịu lời” chứ không thể nhận lời được một cách dễ dàng. Nếu nghe lời chị, lấy người yêu chị làm chồng, Vân phải chịu thiệt thòi, hi sinh. Có lẽ vì thế mà Kiều đã đảo lộn cả trật tự trong mối quan hệ chị em, mời em “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Kiều trang trọng nhưng nhún nhường, Nàng tự hạ mình rất thấp để cầu khấn van xin em. Kiều không đứng ở tư thế của người chị mà đứng ở tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Kiều chưa chính thức yêu cầu Vân giúp đỡ mà mới ngỏ lời một cách dè dặt sau đó “mặc em” quyết định. Dù trong cảnh tan nát cõi lòng, bối rồi đau khổ nhất, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị

Để thuyết phục em, Kiều đã nói về mối tình cà cảnh ngộ khó xử của mình. Lời kể của Kiều ngắn gọn, khái quát nhưng rõ ràng có đầy đủ cá lí, sự, tình. “Kể từ khi gặp chàng Kim/ khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.” Lời trần thuật của Kiều nồng nàn, tha thiết, bộc lộ nỗi đau đớn, xót xa. Tình yêu của Kiều và Kim Trọng đang ở độ nồng thắm nhất và hai người đã có những kỉ niệm thắm thiết, sâu nặng. Sự “sóng gió bất kì” ập đến gia đình khiến Kiều phải hi sinh tình riêng để trả hiếu cho cha, “làm con trước phải đền ơn sinh thành.” Hoàn cảnh bắt buộc Kiều đã phải hi sinh chữ “tình” để làm tròn chữ “hiếu”. Cách nói này của Thúy Kiều cốt để Thúy Vân thấy được sự hi sinh của Kiều mà thương nàng, mà chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng. “Ngày xuân em hãy còn dài / Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Kiều biết em còn trẻ, còn nhiều cơ hội để có tình yêu và hạnh phúc riêng mình nhưng nàng cầu xin em hãy vì tình máu mủ mà thay chị nối tơ duyên với Kim Trọng để chị có thể thanh thản ra đi. Lời cầu khẩn tha thiết như thế làm sao Vân có thể khước từ?

Sau khi nói với Thúy Vân, Kiều trao lại những kỉ vật cho em: “Chiếc vành với bức tờ mây / Duyên này thì giữ vật này của chung”. “Bức tờ mây” là tờ giấy có trang trí hoa văn ghi lời thề thủy chung của Kim, Kiều. “Chiếc vành” – đồ trang sức của phụ nữ, Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin. Đó là những kỉ vật thiêng liêng của tình yêu. Sự xuất hiện của những kỉ vật này làm sống dậy tình yêu nồng nàn, tha thiết của Kiều với Kim Trọng khiến nàng xót xa, nuối tiếc, đớn đau. Lời nói của nàng trở nên bối rối. Duyên đã trao nhưng kỉ vật tình yêu thì dường như Kiều vẫn muón giữ lại. Hai tiếng “của chung” thật xót xa đau đớn. Duyên của chị, chị đã trao lại cho em nhưng kỉ vật tình yêu thì vẫn có phần chị ở trong đó. Lí trí của nàng thì tìm cách để thuyết phục Thúy Vân, trao cho em mối tơ duyên ngắn ngủi của mình nhưng tình yêu tha thiết, mãnh liệt sâu sắc với Kim Trọng lại khiến nàng như muốn níu giữ lại tình yêu ấy, kỉ vật ấy. Tâm trạng đầy mâu thuẫn ấy của Kiều đã bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu nặng của nàng với Kim Trọng.

Sau khi đã trao duyên, nghĩa là Kiều đã lo chu đáo cho Kim Trọng, để người mình yêu thương không phải chịu cảnh “vì ta khăng khít cho người dở dang” lẽ ra Kiều có thể thanh thản, yên lòng để ngày mai ra đi theo Mã Giám Sinh, nhưng thực tế, Kiều không hề thanh thản. Ý thức tình yêu đã tuột khỏi tay, ý thức mình đã mất Kim Trọng khiến nàng thấy hối tiếc, xót xa, đau đớn đến tột cùng. Mất Kim Trọng Kiều chỉ còn tưởng đến cái chết. Tâm trạng của Kiều đầy mâu thuẫn. Nàng đã từng bước thuyết phục Thúy Vân, nếu em lấy Kim Trọng thì dẫu chị có chết cũng được “ngận cười chín suối” vậy mà giờ đây nàng thấy tương lai của mình thật là thê thảm. Nàng hình dung ra tương lai, Thúy Vân và Kim Trọng nên vợ, nên chồng còn nàng chỉ còn là một tâm hồn ma oan trái vật vờ theo gió. Hồn ma ấy vẫn mang nặng lời thề chưa trả được. Tiếng nói của trái tim đau đơn đã lấn áp cả lí trí. Nỗi đau đơn này khiến Kiều như đã trở nên mê lẫn. Trong phút chốc, nàng quên Thúy Vân đang ngồi trước mặt, cất lời nói với mình, khóc cho mình, khóc cho mối tình mình đã dày công vun đặp mà sao ngắn ngủi “Bây giờ trâm gãy gương tan.”.khóc cho “tơ duyên ngắn ngủi”, khóc cho”phận bạc như vôi” của mình. Thế giới thực trong mắt Kiều đã nhòa thành thế giới ảo, lời nói của Kiều như lời nói của cõi âm vọng về trần thế.

Trong đoạn thơ, một loạt những hình ảnh ước lệ đã được nhà thơ sử dụng để diễn tả sự đổ vỡ, tan tác, chia lìa, không thể cứu vãn nổi tình yêu của Kiều. Kiều ý thức rất rõ về sự mất mát đó và nàng đã đau đớn khôn cùng. Tình yêu với nàng là tất cả. Trao duyên nghĩa là tình đã mất. Mất tình yêu Kim Trọng nàng coi mình đã chết.

Khóc than, xót ca cho mình, Kiều mong ước nhận được sự cảm thông từ phía Kim Trọng: “Mất người con chút của tin / Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” . Trao lại kỉ vật cho em, nàng hi vọng khi Kim Trọng trở lại, tuy không gặp nàng nữa nhưng những kỉ vật của tình yêu mà nàng trao cho Thúy Vân sẽ là bằng chứng nói với chàng tình yêu thủy chung của nàng. Hoàn cảnh khách quan đã xô đẩy nàng phải từ bỏ tỉnh yêu với Kim Trọng chứ bản thân nàng không muốn vi phạm lời thề với chàng: “Phím đàn”, “mảnh hương nguyền” – những kỉ vật ấy gắn liền với đêm thề nguyền thiêng liêng của hai người trong phút chôc đã trở thành quá khứ xa xôi. Tình yêu của hai người tha thiết thế làm sao có thể kể hết “muôn vàn ái ân”. Từ độc thoại nội tâm, Kiều chuyển sang tâm sự với người yên đang vắng mặt. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”. Bao nhiêu đau đớn, nuối tiếc, xót xa trong lời giã biẹt với người yêu vắng mặt. Nàng đau đớn oán trách số mệnh “bạc như vôi”, đau đớn cho thân phận “nước chảy hoa trôi lỡ làng” của mình và đau đớn, xót xa thay cho Kim Trọng. Hình ảnh Kim Trọng hiện lên choáng ngợp trong tâm hồn Kiều. Nàng thốt lên nỗi đau đớn, tuyệt vọng vì thấy mình đã phụ Kim Trọng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” Từ “phụ làm rõ vẻ đẹp cao thượng, giàu đức hi sinh của Kiều. Nàng đã làm việc có thể chăm lo cho Kim Trọng vậy mà giờ đây nàng vẫn cho mình có lỗi, mình đã phụ bạc Kim Trọng. Tiếng khóc ấy làm rõ hơn vẻ đẹp và đức hi sinh cao quý của Kiều. Bi kịch tình yêu tan vỡ lên tới đỉnh điểm. Tuy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng tình yêu sâu sắc, mãnh liệt đối với kim Trọng lại khiến Kiều đau đớn xót xa chứ không hề thanh thản. Điều ấy đã thể hiện Kiều không chỉ là một người con hiếu thảo mà là một cô gái tha thiết, mãnh liệt trong tình yêu.

***************

Trên đây là 12 bài mẫu Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du lớp 10 do thầy cô biên soạn. Hy vọng sẽ giúp các em học sinh lớp 10 có thêm nhiều ý tưởng để hoàn thành tốt bài cảm nhận của mình sao cho hay và cuốn hút nhất.

Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong

Chuyên mục: Giáo Dục


— Cập nhật: 12-04-2023 — nongdanmo.com tìm được thêm bài viết Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du (Dàn ý + 8 Mẫu) Trao duyên của Nguyễn Du từ website download.vn cho từ khoá cảm nhận bài trao duyên lớp 10.

Cảm nhận Trao duyên của Nguyễn Du bao gồm dàn ý và 8 bài văn mẫu hay, đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Cảm nhận bài Trao duyên giúp các bạn học sinh lớp 10 có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi ngôn ngữ, biết cách làm bài văn cảm nhận hay, đầy đủ các ý để đạt được kết quả cao trong bài thi học kì 2 lớp 10 môn Văn.

Trao duyen 1

Cảm nhận bài Trao duyên khiến người đọc không kìm nén được cảm xúc khi nghĩ đến thân phận và nỗi đau mà người con gái hiếu thảo ấy phải gánh chịu. Xã hội bất công, lòng người bạc bẽo đã đẩy những phận người thấp cổ bé họng vào con đường không lối. Thúy Kiều và mối tình đứt gánh ấy là minh chứng cho điều đó. Vậy sau đây là 8 bài cảm nhận Trao duyên hay nhất mà Download.vn tổng hợp, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Trao duyên

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều

– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên

2. Thân bài

a. Lời nhờ cậy trao duyên của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)

* Bốn câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều

– Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết.

– “Cậy” vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng.

– Kiều dùng lời nói, hành động của người chịu ơn để nói với Thúy Vân.

* Tám câu tiếp: Sự thuyết phục của Thúy Kiều

– 4 câu thơ tiếp: Thúy Kiều Kể về mối tình với chàng Kim

+ Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim.

– 4 câu thơ sau: Lí do Kiều quyết định trao duyên

+ Biến cố gia đình ập tới, Kiều buộc phải từ bỏ tình yêu để làm tròn chữ hiếu

+ Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước

+ Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết.

b. Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân (14 câu thơ tiếp theo)

* Sáu câu đầu: Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân

– Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng.

– Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em.

– Sự mâu thuẫn, xung đột: Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể.

* Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều

– Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan

c. Thực tại xót xa và lời nhắn gửi tới chàng Kim (tám câu thơ cuối)

– Dù do tình cảnh ép buộc, nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phụ chàng Kim. – – Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột.

d. Đánh giá nghệ thuật

– Cách sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo

– Các thành ngữ dân gian

– Khẳng định tài năng của Nguyễn Du

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

Sơ đồ tư duy cảm nhận đoạn trích Trao duyên

so do cam nhan trao duyen

Cảm nhận Trao duyên – Mẫu 1

Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đoạn “Trao duyên” trích trong tác phẩm là đoạn đặc sắc khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thuý Kiều khi ngậm ngùi trao duyên cho em gái Thuý Vân.

Theo mạch truyện, nguyện ước kết duyên trăm năm của Thúy Kiều và Kim Trọng chưa được bao lâu thì tai biến xảy đến với gia đình Kiều. Không đành lòng trước sự khổ sở mà cha và em phải gánh chịu, Kiều quyết định bán mình để cứu gia đình. Mọi việc dường như đã xong xuôi, Kiều thức trắng đêm nghĩ đến chàng Kim và tình yêu mặn nồng cùng chàng, vừa day dứt vừa tiếc nuối, Kiều đành cậy nhờ em gái kết duyên với Kim. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm:

Thuý Kiều mở lời với em:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Cả cử chỉ và lời nói của Kiều đều chung một niềm trông mong, nhờ cậy. Hành động “lạy” em của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình huống khó có thể chối từ đồng thời cũng là dấu hiệu cho thấy việc mà Kiều sắp nói với Vân đây là vô cùng hệ trọng:

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Thành ngữ “đứt gánh tương tư” được tác giả vận dụng thể hiện có ý chỉ tình yêu dang dở của Kiều -Kim. Tình cảm của hai người vừa mới chớm nở, chưa kịp tới ngày viên mãn thì đành ‘đứt gánh”, sóng gió ập tới. Chấp nhận dở dang, Kiều ngậm ngùi trong khổ đau trao lại cho em mối “tơ thừa”. Kiều hiểu được sự thiệt thòi của Vân khi nhận chắp mối duyên với Kim Trọng, bởi dù với Kiều đó là tình yêu đẹp thì với Vân đó chỉ là mối “tơ thừa” mà thôi. Hai từ mặc em được tác giả đặt cuối câu cho thấy Kiều đang đặt hết kỳ vọng vào Vân, mong Vân thay mình làm vẹn tròn nghĩa nặng với chàng Kim.

Lời đã nói ra nhưng nào dễ trút đi những nỗi niềm trong tâm khảm. Dằn lòng mình, Kiều tâm sự với em những kỉ niệm đẹp của mối tình với Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Điệp từ “khi” được sử dụng như càng khẳng định tình cảm sắt son của Kiều và Kim Trọng. Họ đã gặp gỡ, hẹn hò, cùng nhau ước nguyện, uống chén rượu giao bôi. Đang sống trong những kỉ niệm đẹp, Kiều lại trở về với hiện thực phũ phàng, cay đắng:

“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Cơn sóng gió ập tới bất ngờ khiến Kiều và gia đình lâm vào nguy biến. Giữa chữ hiếu với gia đình và chữ tình với Kim Trọng, nàng đã chọn chữ hiếu- bán mình để cứu cha và em. Nhưng vẹn đạo làm con, nàng đành buông tay với mối tình dang dở, trở thành kẻ phụ tình. Nàng nghĩ về tình yêu với chàng Kim, không muốn Kim phải chịu sự khổ đau như mình đang gặm nhấm, đành nhờ cậy Vân. Để thuyết phục em thêm, Kiều thủ thỉ:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bốn câu thơ thốt lên bằng tất cả niềm hy vọng, sự mong cầu, bốn câu thơ như là một lời cầu xin tha thiết tự tận đáy lòng của Kiều. Sự thông minh của Kiều là khéo léo lấy niềm vui của mình được “thơm lây” nơi chín suối nhằm khiến Thúy Vân có không muốn cũng không thể chối từ. Hơn nữa, với Vân, những ngày tháng thanh xuân còn dài, Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian còn với Kiều thì bán thân coi như là chấm dứt tuổi trẻ, chôn vùi thanh xuân của mình. Những lý do của Kiều đưa ra vừa hợp lẽ, hợp tình khiến Vân nào thể không nhận lời nhờ cậy từ người chị đáng thương.

Khi trao “chút của tin” – chiếc vành với bức tờ mây, Thúy Kiều nhớ đến đêm thề nguyền trong quá khứ, vừa thương tiếc vừa xót xa khôn nguôi, Kiều ngậm ngùi với nỗi đau đớn tột cùng:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.”

Trao kỷ vật cho em mà lòng đau như cắt, mâu thuẫn trong nội tâm nàng lên đến đỉnh điểm, tay muốn trao mà lòng không nỡ. Đó là sự mâu thuẫn giữa thân phận và nhân cách, giữa lí trí và tình cảm nơi Kiều. Có lẽ với nàng lúc này đây, tình chưa cạn mà đành phải dứt là nỗi đau khôn cùng, sống mà không có được hạnh phúc thì khác gì không tồn tại, vì vậy mà cái chết cứ ám ảnh trong tâm trí nàng.

Sáu câu cuối đoạn trích là lời độc thoại đầy thổn thức của Kiều. Nàng như quên hẳn mình đang trò chuyện với Vân mà sống trong tâm trạng của chính mình, lời day dứt thốt lên trong nỗi mặc cảm phụ tình:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao, phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Kiều gửi trăm nghìn lạy cho tình quân của mình là hành động tạ từ tha thiết, chân thành, là cái cúi chào tạm biệt trong nỗi đau chia ly. Tơ duyên tưởng sẽ dài lâu, bền đẹp nào ngờ “ngắn ngủi” giữa đoạn đường. Kiều trách phận mình bạc như vôi trầu, như hoa chảy bèo trôi giữa dòng, đành chấp nhận tình lỡ làng, xa cách. Thành ngữ “bạc như vôi” cất lên trong tiếng đau thương rỉ máu của Kiều nghe sao xót xa, bi ai đến phẫn cực.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ cho người khác. Nỗi đau mà nàng đang chịu vô bờ mà vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, lo lắng cho người thương. Những gọi Kim Lang cất lên trong tha thiết càng tô đậm thêm trái tim nhân hậu, trọng nghĩa trọng tình của Thuý Kiều.

Đoạn trích “Trao duyên” tuy không quá dài là một đoạn tích vô cùng đặc sắc. Qua đó là thấy được vẻ đẹp của một tấm lòng thuỷ chung, son sắt, thấu hiểu nỗi đau đớn giằng xé tâm can của người con gái trong tình yêu và cảm nhận được tính nhân văn cao cả trong từng tứ thơ mà Nguyễn Du sáng tạo nên.

Cảm nhận bài Trao duyên – Mẫu 2

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những kiệt tác nổi bật góp phần làm nên diện mạo, đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm với 3254 câu thơ lục bát viết về cuộc đời chìm nổi của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Nhiều đoạn trích của thi phẩm được đưa vào chương trình SGK để dạy và học trong nhà trường, Trao duyên là một trong những đoạn trích như vậy. Trích đoạn đã tái hiện lại bi kịch tình yêu đầy đau đớn Thúy Kiều, qua đó thể hiện sự trân trọng, đồng cảm của tác giả Nguyễn Du với tình duyên dang dở và cuộc đời đầy sóng gió của nàng Kiều. Mười hai câu đầu đoạn trích đã thể hiện rõ điều đó.

Thúy Kiều và Kim Trọng tình cờ gặp nhau, họ đem lòng cảm mến và dành cho nhau tình cảm đặc biệt. Vượt qua những quy định của lễ giáo phong kiến, Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tới gặp mặt, kết tóc thề nguyện cùng Kim Trọng. Tình yêu của họ là nhân duyên tiền định, vốn sẵn đẹp đẽ và có thể dài lâu, thế nhưng, phận đời trớ trêu, dòng người xô đẩy, Kiều đành ngậm ngùi quyết định “trao” lại mối duyên của mình cho Thuý Vân. Sau một đêm trắng suy nghĩ, Kiều chua xót nhờ cậy em:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

“Cậy” ở đây là cậy nhờ, là lời thỉnh cầu, trông mong được giúp đỡ. Từ “cậy” chứa đựng cả niềm hy vọng, tin tưởng của người nhờ vả vào người được nhờ. Từ “chịu” thể hiện sự khẩn thiết, Kiều như đang van nài, cầu xin em, đặt Thuý Vân vào tình thế khó lòng từ chối. Hành động “lạy”, “thưa” kết hợp cùng lời nói của Kiều cho thấy được sự khéo léo, chân thành của nàng khi nhờ cậy em. Kiều là chị, Vân là em, lẽ thường thì chị chẳng lạy thưa em bao giờ nhưng trong tình cảnh này Kiều lại làm như vậy lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc bởi lúc này Kiều đang là người nhờ vả, đang chịu ơn em. Nàng không muốn phụ tấm chân tình của Kim Trọng nhưng cũng hiểu rằng việc trao lại mối duyên dang dở sẽ mang đến sự khó xử, thiệt thòi cho Thúy Vân.

Tình yêu vốn là tình cảm thiêng liêng, khi yêu chẳng ai muốn san sẻ tình yêu của mình cho người khác, thế nên hành động trao duyên của Thúy Kiều cũng không hề dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em, mong em nhận lời, nàng tâm sự cùng Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Trong nỗi đau xót của tình yêu đứt gánh, keo loan ngỡ trăm năm vậy mà đành nhớ em “chắp mối”. Hai tiếng “mặc em” cất lên là cả sự tin tưởng, phó mặc cho Vân, mong cầu Vân sẽ cùng chàng Kim kết lại keo loan bền chặt ấy. Trong nỗi đau chia sẻ tình yêu, bao kỉ niệm tươi đẹp của khoảng thời gian hạnh phúc ùa về trong tâm trí. Điệp từ “khi” kết hợp với các cụm động từ “gặp chàng Kim”, “quạt ước”, “chén thề” cho thấy tình yêu bền chặt, thắm thiết của Kiều- Kim. Nhưng hiện thực phũ phàng, trêu ngươi, tình yêu đành dang dở vì sóng gió ập đến với gia đình nàng. Kiều đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, thân phận trớ trêu:

Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Để trọn đạo làm con, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em, gìn giữ ấm êm gia đình. Giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều chọn chữ hiếu bởi công lao dưỡng dục nghìn nặng trăm sâu, Kiều nào thể dứt bỏ. Nàng không đành lòng lựa chọn hạnh phúc riêng mà quay lưng với biến cố của gia đình. Bởi thế mà nàng đau đớn khôn nguôi, tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đây thôi lại vội vàng vỡ tan, trái tim nàng như rỉ máu vì tình yêu tan vỡ, xót xa, đau đớn vô cùng. Cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng cũng là để lòng nàng được với chút bận tâm khi đang trong nỗi mặc cảm của một kẻ phụ tình. Hết lòng thuyết phục Vân, nàng mong em gái mình có thể hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu, dẫu biết điều đó thật khó cho Vân:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Bằng sự thông minh, suy nghĩ thấu đáo của mình, Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ để thuyết phục Vân. Trước hết là Vân có thanh xuân, Vân còn trẻ, Vân sẽ có thời gian để cùng Kim Trọng tìm hiểu mà kết tóc se duyên trong đoạn cuộc đời còn lại. Hơn nữa, Kiều và Vân lại là chị em ruột thịt, Vân nào có thể đành lòng nhìn chị khổ đau, dằn vặt trong mặc cảm tội lỗi phụ bạc tình yêu. Cuối cùng, nàng nói về cái chết của bản thân, một niềm vui tìm thấy trong nỗi đau của cái chết “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, nếu được Vân chấp thuận thì dù có phải chết, Kiều cũng an lòng mà nhắm mắt. Từng lời lẽ của Thuý Kiều thốt ra đều hợp lẽ, hợp tình, Kiều dằn lòng gặm nhấm nỗi đau thương, chịu thua thiệt về bản thân mình, chỉ mong Vân giúp mình cùng Kim Trọng kết duyên để bù đắp cho người mình thương. Mặc cảm tội lỗi dường như đang bao vây lấy tâm trí và trái tim nhỏ bé nơi Kiều. Lời nhờ cậy và thuyết phục Vân của Thuý Kiều thật cảm động, chân thành , tha thiết biết bao.

Bằng 12 câu thơ lục bát cùng cách sử dụng ngôn từ tinh tế, chọn lọc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công bi kịch tình yêu và tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều trong cơn nguy nan của số phận.

Cảm nhận về Trao duyên – Mẫu 3

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là bức tranh xã hội phong kiến thối nát với những bất công đày đọa con người, đặc biệt là với người phụ nữ. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vương Thuý Kiều – một cô gái vừa tròn tuổi cập kê, nhan sắc và tài năng vẹn toàn. Trong một lần đi chơi xuân, nàng đã tình cờ gặp gỡ và bén duyên cùng Kim Trọng – chàng công tử hào hoa phong nhã. Hai người đã cùng nhau đính ước và thề nguyền dưới trăng. Thế nhưng, sóng gió gia đình ập tới, khiến nàng buộc lòng phải bán mình cứu cha và em trai. Vậy nên, vào đêm trước ngày ra đi, Thuý Kiều đã cậy nhờ người em gái của mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên đã thuật lại diễn biến của đêm trao duyên ấy đồng thời cũng diễn tả tâm trạng giằng xé của Thuý Kiều khi phải trao đi mối tình sâu đậm.

Đoạn trích Trao duyên nằm ở đoạn đầu phần hai Gia biến và lưu lạc trong tác phẩm, từ câu 723 đến câu 734 của tác phẩm Truyện Kiều. Sau đêm thề nguyền hẹn ước cùng nhau, Kim Trọng phải về quê để chịu tang chú. Đúng lúc đó, gia đình Kiều gặp gia biến, cha và em trai nàng bị bắt vào ngục. Để cứu được cha và em, nàng phải “bán mình” lấy bốn trăm lạng vàng. Thế nhưng, nhớ tới mối tình đầu sâu nặng với chàng Kim cùng lời hẹn thề dưới trăng hôm ấy, Kiều không muốn phụ tấm lòng của tình lang, vậy nên, nàng đã cậy nhờ Thuý Vân – em gái của mình thay mình kết duyên, trả nghĩa cho Kim Trọng để giữ đúng lời hẹn thề của hai người.

Chuyện tình yêu của Kiều và Kim Trọng là câu chuyện tình trong bí mật, chuyện riêng của Kiều, Thuý Vân cũng không hề hay biết. Thế nhưng giờ đây, khi nàng tâm sự với em chuyện tình cảm của mình thì lại là lời ngỏ để em thay mình trả nghĩa, nên duyên cùng người yêu của mình. Chỉ vậy thôi, nghe cũng xót xa, đau đớn vô cùng! Thuý Kiều đã mở lời với em gái mình trong sự e ngại, lấp lửng, “rào trước đón sau”:

“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Vốn là chị, là bậc bề trên với Thuý Vân, thế nhưng, mỗi lời nói, hành động của Kiều lúc này lại như là một kẻ bề dưới đang khẩn cầu em gái mình. Đầu tiên, Kiều mở lời bằng hai tiếng “cậy em”. “Cậy em” chứ không phải “nhờ em”, một từ “cậy” thôi nhưng mang sức nặng vô cùng, mang trong đó là sự khẩn thiết vô hạn của nàng. Thuý Kiều “cậy” nhờ em gái, không biết em có “chịu lời” hay không, nhưng câu nói của nàng như có một sức nặng khiến cho Thuý Vân khó có thể chối từ. Tiếp đó, Kiều còn dùng hành động “lạy rồi sẽ thưa” để tỏ bày sự kính cẩn đối với Vân. Đây là hành động bất thường, mang tính trang trọng, nghiêm túc vô cùng. Bởi Kiều là chị sao có thể quỳ lạy với em gái mình? Thế nhưng, nếu xét ở trường hợp này thì điều đó cũng là lẽ thường tình bởi Kiều đã xem Vân như ân nhân của mình, là người cứu vớt duy nhất cho tình yêu của đời nàng. Em gái cũng là nơi duy nhất mà Kiều có thể gửi gắm tấm chân tình và bằng hành động, lời nói như thế, Thuý Vân sẽ khó lòng có thể từ chối lời nhờ cậy của chị gái mình. Ở đây, người đọc có thể thấy được sự khéo léo, sự tinh tế trong cách nói chuyện của Kiều, có thể thấy, nàng quả là một người con gái vô cùng thông minh, sắc sảo, dù trong lòng nàng đang bị giằng xé bởi bao nhiêu nỗi đau, nàng vẫn tỏ ra là một người thiếu nữ vẹn toàn.

Sau khi bày tỏ tấm lòng mình với sự thành kính với em gái, Kiều lại tiếp tục kể cho em nghe về mối tình đầu của mình:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Chuyện tình cảm của nàng với chàng Kim vốn là một câu chuyện tình yêu tuyệt đẹp, nàng tài sắc còn chàng thì hào hoa. Thế nhưng, sóng gió đã khiến cho câu chuyện tình yêu vừa chớm nở ấy phải vụt tắt, phải “đứt gánh tương tư” giữa chặng đường tuổi xuân. Mặc dù có nỗi khổ riêng và vô cùng đau khổ nhưng việc nàng phụ Kim Trọng là một sự thật không thể chối cãi, thế nên Kiều đành nhờ Vân “chắp mối tơ thừa” này thay cho nàng. Khi thấy Thuý Vân còn đang ngơ ngác, chưa hiểu mọi sự thì Kiều lại lên tiếng kể về mối tình của mình, mong em gái sẽ hiểu cho lý do mà nàng làm như thế mà chấp nhận mối duyên mà Kiều trao gửi:

“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Nàng kể về tình yêu của mình, từ lúc gặp gỡ cho tới lúc hẹn thề, tất cả đều đẹp như mơ. Có lẽ trong khoảnh khắc này, Kiều cũng đã mỉm cười hạnh phúc, bởi nàng đã có những phút giây tươi đẹp bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng, càng hạnh phúc bao nhiêu thì nàng lại càng đau đớn bấy nhiêu bởi “sự đâu sóng gió bất kì”. Sóng gió ập tới quá bất ngờ khiến cho nàng buộc lòng phải rời xa tình yêu đầu thắm thiết, nàng chẳng có cách nào vẹn toàn cả chữ hiếu và chữ tình. Vậy nên, nàng buộc lòng phải phụ tình Kim Trọng, nhưng Kiều là người hiểu đạo nghĩa, cũng là người con gái thấu tình đạt lý, nên trong giờ phút này, mặc dù đau xót, nhưng chỉ có em gái là người có thể giúp nàng san sẻ tâm tình cũng như trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều viện tới lý do rằng “ngày xuân em hãy còn dài” tức là thanh xuân của Vân còn đang rực rỡ, Vân hãy vì nàng mà nhận lấy mối duyên này. Được như thế thì dù có chết, Kiều cũng “ngậm cười” nơi chín suối. Những câu nói mang đầy những nỗi tủi hờn, những niềm đau xót và cả dự cảm về một tương lai chẳng lành đầy oan trái của Kiều như thế làm sao một người làm em như Vân lại có thể từ chối đây?

Tình yêu là những lời hẹn thề, là những kỉ niệm và kỉ vật trao cho nhau. Kỷ vật là thứ mà mỗi khi nhớ người tình, ta thường hay đem ra ngắm để “nhìn vật mà nhớ người”. Thế nhưng, giờ đây, Kiều đã quyết định trao đi tình yêu của mình, nên nàng cũng đành phải trao đi kỷ vật tình yêu mà nàng trân trọng vô cùng:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Trao đi kỷ vật tình yêu cũng là trao đi hết tất cả những gì còn lại của mối duyên này. Điều này cho thấy Kiều không chỉ trao duyên cho Vân vì chút nợ ân tình với Kim Trọng mà còn là trao đi bằng cả sự trân trọng tình yêu của mình. Nàng luôn giữ những kỷ vật này bằng sự nâng niu, trân quý thiêng liêng, nhưng giờ đây khi đã nhờ cậy em gái trả nghĩa cho tình lang của mình, nàng muốn trao cả tín vật tình yêu của nàng cho trọn vẹn, dù rằng trong lòng nàng đau khổ và giằng xé bao nhiêu. “Chiếc vành với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”, tất cả nàng đều trao lại cho em trong sự nuối tiếc, day dứt, dằn vặt. Chẳng vậy mà Kiều dặn em rằng: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Nàng trao duyên, trao đi tín vật tình yêu, thế nhưng trong lòng nàng là biết bao sự giằng xé. Tình duyên giờ là của Vân, thế nhưng tín vật này là của chung ba người. Phải chăng, Kiều nuối tiếc, trăn trở, đau khổ và giằng xé vô cùng trước nỗi đau phải trao đi tình yêu, nàng vẫn còn muốn giữ lại cho mình chút gì đó về mối tình đậm sâu này chăng?

Hơn thế, Kiều còn dặn dò em gái đừng quên mình, quên người chị “bạc mệnh” này, khi nhìn những kỷ vật này, hãy nhớ tới nàng. Những lời nói chứa đầy sự ảm đạm, sự thê lương, như lời dặn dò của một người sắp rời xa thế gian. Ẩn chứa trong đó dường như là sự dự cảm không lành của Kiều về cuộc đời sóng gió của mình phía trước, sự tuyệt vọng với số phận của chính mình.

Dù rằng Kiều ra đi là để theo chồng, thế nhưng, những câu nói của Kiều lại như một lời dặn dò em gái trước khi nàng rời xa thế giới này:

“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.”

Những câu nói của Kiều chứa đầy nỗi tuyệt vọng dù rằng nàng chỉ đang bán thân làm lẽ cho người. Có lẽ bởi vì với nàng, tuổi xuân đã chấm dứt, bao nhiêu mơ ước, khát khao đều bị chôn vùi. Nhớ về số phận của Đạm Tiên mà nàng đã vô tình bắt gặp trong tiết thanh minh, nàng càng có dự cảm không lành cho số phận của mình. Trong tâm nàng, tất cả mọi hi vọng vụt tắt, chỉ còn nỗi đau mất đi tình yêu, sự tăm tối khi nhìn về tương lai phía trước, có lẽ những điều đó đã khiến nàng nghĩ về cái chết nhiều hơn là một cuộc sống bình thường. Thế nhưng, dù là trong đau khổ, trong dự cảm chẳng lành như thế, Kiều vẫn mang Vân có được một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, và dù nàng có ở thế giới bên kia, nàng cũng chỉ xin Vân “rảy xin chén nước” cho người chị bạc mệnh này. Từng lời nói của Kiều có thể cho thấy nàng là người con gái hết sức thấu hiểu lí lẽ, hết sức thông minh, chu toàn mọi sự, dù trong đau khổ, xót xa, giằng xé vì phải trao tình yêu của mình, nàng cũng không hề oán trách, không hề tức giận.

Tất cả những điều cần dặn dò, Kiều đã dặn lại hết cho Vân. Sau đó, Vân rời đi, còn lại mình Kiều trong căn phòng, giờ đây, mọi cảm xúc trong tâm nàng mới bùng lên thật mạnh mẽ. Những nỗi đau đớn, xót xa giờ đây mới được bộc lộ ra thật rõ ràng, vỡ òa trong tức tưởi:

“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiểu hiểu tình thế mà mình đang phải đối mặt, nàng chấp nhận số phận rằng nàng và Kim Trọng phải rời xa nhau “trâm gãy bình tan”, nàng phải phụ lòng chàng. Vốn tưởng là một chuyện tình đẹp như mơ với đôi trai tài gái sắc, thế nhưng chỉ vì một cơn sóng gió đã phá huỷ tất cả mọi hy vọng của nàng. Những phút giây hạnh phúc chỉ là chút “tơ duyên ngắn ngủi”, đành gửi lại tình lang của mình. Trái tim Kiều quặn thắt trong đau đớn, những giọt nước mắt xót xa cho mối duyên tình vừa chớm đã đành bạc mệnh lìa đời. Đứng giữa bên hiếu bên tình, Kiều cũng chỉ đành “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, dù rằng nàng vô cùng tiếc nuối cũng vô cùng hổ thẹn và xấu hổ khi đã bội ước với chàng. Dù đã nhờ cậy Thúy Vân trả duyên cho Kim Trọng, nhưng Kiều vẫn cảm thấy có lỗi vô cùng. Chỉ từng ấy thôi cũng có thể thấy tình cảm mà nàng dành cho Kim Trọng sâu sắc và thắm thiết đến nhường nào, với nàng, tình yêu ấy vô cùng thiêng liêng và quý giá, phải trao đi là sự tiếc nuối, đau đớn nhất trong đời của nàng.

Nếu như từ đầu đến giờ, ta chưa từng thấy Kiều có một câu oán trách số phận trước mặt Vân thì giờ đây Kiều lên tiếng oán trách số phận mình:

“Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Nàng oán trách nhưng cũng đành bất lực trước sự ngang trái của xã hội, của số phận mình. Một cô gái tài sắc vẹn toàn như nàng nhưng giờ đây cũng đành xót xa, buông xuôi số phận trong bế tắc, đau khổ và tủi nhục khi phải làm phận thiếp lẽ cho người, phải tự tay cắt đi mối nhân duyên đẹp đẽ. Nỗi đau xót vô bờ ấy cùng với nỗi đau uất ức khỉ phải chia lìa Kim Trọng đã khiến nàng phải thốt lên trong vô vọng:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Tiếng kêu thảm thương ấy là lời mở đầu cho chuỗi mười lăm năm lưu lạc trong biến cố, lênh đênh vô định của cuộc đời người con gái mang tên Vương Thuý Kiều.

Đoạn trích Trao duyên là trích đoạn mở đầu của cuộc sống lưu lạc của Thuý Kiều sau này. Bằng tài năng sử dụng ngôn từ của mình, Nguyễn Du đã thể hiện cho chúng ta hình ảnh của một Thuý Kiều thông minh, sắc sảo hơn người qua từng câu nói thuyết phục em gái khi trao duyên, đồng thời cũng làm rõ tâm trạng giằng xé phức tạp của nàng khi buộc phải trao đi mối duyên đầu. Qua đó, ta hiểu được tình cảm sâu đậm của Kiều dành cho Kim Trọng cũng như những dự cảm không lành cho tương lai của mình. Đoạn trích cũng làm nổi bật tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi ông đã cảm thông với số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ và trân trọng những phẩm chất đáng quý của họ.

Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên – Mẫu 4

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông sống trong giai đoạn lịch sử đầy bão táp , cái xã hội bị đồng tiền chi phối. Trong cái xã hội ấy Nguyễn Du đã chứng kiến rất nhiều cảnh bất công cũng như cái xã hội thối nát bấy giờ. Ông có cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người phụ nữ lúc bấy giờ. Ông viết ra rất nhiều tác phẩm nổi tiếng để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, đáng thương với người phụ nữ bất hạnh. Trong đó có kiệt tác “Truyện Kiều” trong truyện có đoạn trích “Trao duyên” mang âm hưởng bi kịch của sự đứt đoạn một tình yêu đẹp. Đoạn trích miêu tả tình cảnh trớ trêu của Kiều khi phải trao duyên cho em. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan vỡ, mình phải buộc phụ lòng Kim Trọng

Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến với gia đình Thúy Kiều, Kiều phải buộc bán thân để chuộc cha và em. Đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Đem tình yêu của mình cho người khác là một bất đắc dĩ, vì Kiều không thể làm khác hơn vì đã lỡ hứa hẹn với chàng Kim. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, trao duyên trong hoàn cảnh Thúy Kiều là một truyện khó nói và tế nhị vì Vân chưa biết gì về mối tình của Kiều và chàng Kim. Bốn câu thơ thể hiện tư thế, hình ảnh Kiều khi nhờ Vân nối duyên với người yêu mình:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Những điều Kiều sắp nói với vân thực sự quan trong và thiêng liêng. Đó là “cậy, lạy, thưa” thể hiện niềm tin chỉ có Vân là người mà Kiều tin cậy nhất. “Cậy” có sức nặng của niềm tin. Ở đây tác giả dùng “chịu lời” chứ không phải nhận lời là bắt người mình tin phải nghe theo và khó lòng từ chối. “Ngồi lên, lạy, thưa” là những thái độ của bề trên, những người có ơn với mình.

Từ những câu thơ trên ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát thì Kiều vẫn dùng những lời lẽ đoan trang tế nhị thể hiện sự nhờ vả khẩn khoản của Kiều.

Kiều đau đớn khi tâm sự với em về mối tình của mình. Hình ảnh “quạt ước, chén thề” điệp từ “khi” diễn tả tình cảm gắn bó thân thiết, sâu sắc. “Đứt gánh tương tư” là sự mong manh, tan vỡ đột ngột, bất ngờ. Kiều xin em chắp nối tơ thừa của mình trả nghĩa cho Kim Trọng. “Mặc em” là phó mặc, ủy thác vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Vân phải nhận lời với mình:

“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Trong cái xã hội phong kiến đầy rẫy sự bất công khiến cho nàng phải chịu khổ. Cha nàng bị kẻ gian hãm hại phận làm con nàng phải bán mình chuộc cha. Chữ hiếu làm tròn thì đồng nghĩa với chữ tình kia không vẹn

Nàng tự thấy Thúy Vân vẫn đang còn trẻ và là người duy nhất nàng tin cậy được nên yên tâm gửi lại mối tình này cho em:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Kiều mong Vân xốt tình chị em máu mủ ruột già mà đồng ý chuyện mình bén duyên với Kim Trọng. Mai kia Kiều không còn trên đời nữa thì cũng vui lòng khi Vân chấp nhận mối tơ duyên này.

Đến đây Kiều lại đưa ra những kỉ vật tình yêu giữa nàng với Kim Trọng để trao cho Vân. Trao đi tì sẽ không còn là của mình nữa nhưng Kiều vẫn mong em coi đó là kỉ vật của ba người:

“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.”

Chiếc vành, bức tờ mây gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của Kim-Kiều. Phím đàn, mảnh hương nguyền trở thành ngày xưa, quá khứ. Những kỷ vật quý giá thiêng liêng chứng minh cho tình yêu đẹp. Trao kỷ vật đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều khẳng định giữa tình cảm và lý trí , nhân cách và thân phận của Kiều. Tâm trạng của Kiều chứa đầy mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lý trí và tình cảm

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều hình dung ra viễn cảnh đối lập nhau. Một bên là Thúy Vân và kim Trọng sum họp và một bên là oan hồn bạc mệnh của nàng. Dù nàng có chết thì mối tình của nàng với chàng Kim vẫn còn nặng. Trong lúc này thì sự bối rối, sự oan của mình làm cho Kiều không còn nghĩ tới mình đang nói chuyện cho mình nghe. Kiều tiên đoán trước cảnh tượng oan nghiệt, xót xa đang đợi mình phía trước.

Tình yêu mất xem như kiều đã chết, cái chết trống trải khi không có tình yêu, đó là cái chết tâm hồn. Tiếng nói thương xót cho thân phận của con người thiết tha với tình yêu. Chuyển từ đối thoại với em sang độc thoại nội tâm. Trao kỷ vật mà lòng thổn thức, đau lòng

Nàng lạy trăm nghìn cái gửi cho tình quân của mình như thể hiện lời xin lỗi chân thành cũng như cái cúi chào tạm biệt trước khi chia ly. Tơ duyên tưởng chừng sẽ cùng nhau đi tới cùng trời cuối đất nhưng mà ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Đoạn trích trao duyên quả là một đoạn trích hay và giàu ý nghĩa. Nó không chỉ nói lên được tâm trạng của Thúy Kiều mà còn thể hiện được bộ mặt xã hội phong kiến đầy những bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng. Dù nàng có đi đâu thì nàng cũng vẫn nhớ về mối tình cùng chàng Kim Trọng.

Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên – Mẫu 5

Nhắc đến văn học Việt Nam, ngay cả bạn bè quốc tế, không ai không biết đến “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. 3245 câu thơ lục bát, mỗi câu đều thấm vào lòng người, rung động cả thời gian. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.

Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, trai tài gái sắc đem lòng cảm mến. Một đêm trăng thanh đã định ra lời thề nguyền. Song Kim Trọng phải về quê chịu tang chú ruột. Biến cố cũng bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều. Để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh. Vì làm tròn chữ hiếu, nàng đành phải từ bỏ mối tình tốt đẹp với Kim Trọng. Lời thề nguyền trước đó không bao lâu, Kiều không thể thực hiện được. Vào đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều quyết định nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình cho Kim Trọng.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Trong gia đình Vương ông, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Kiều vốn có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Nhưng khi trao duyên, từ hành động đến cử chỉ, Thúy Kiều đều tự hạ mình để khẩn cầu em. Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết. Không khí cuộc trò chuyện từ đó cũng trở nên nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Không phải “nhờ” mà là “cậy”. “Cậy” vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng. Dù muốn em thay mình nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Song Thúy Kiều vẫn hiểu rằng như thế là bất công với Thúy Vân. Những lời nói và hành động trái với vai vế lễ nghi, chứa đầy sự trang trọng do vậy mới xuất hiện.

Là chị, nhưng Kiều không đứng ở vị trí của người chị mà dùng tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Lời nhờ cậy ngỏ ra vẫn còn dè dặt, không bắt ép mà “mặc em” quyết định. Tình yêu với Kim Trọng không phải mờ nhạt thoáng qua mà là khắc cốt ghi tâm. Từ bỏ, Kiều phải chịu đựng nỗi đau tan nát cõi lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.

Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã nói về cảnh ngộ bắt buộc của mình và mối tình dang dở với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim. Đồng thời cũng như một lưỡi dao sắc, gợi bao đau đớn, xót xa của hiện thực. Tình yêu đôi lứa bị chia cắt, dang dở.

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”

Trong sâu thẳm tâm hồn người con gái tài sắc vẹn toàn là những tâm sự và nỗi đau khắc cốt ghi tâm. Từng câu từng chữ đều thăm thẳm đớn đau xé lòng. Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết. Nguyện ước trao duyên quả thật tha thiết, xót xa khôn cùng. “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” đều là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể chối từ. Ngoài ra cũng như mang theo mà dự cảm không lành của nàng về tương lai, số phận bi kịch nhiều sóng gió.

Sau khi thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo, thấu tình đạt lí, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng, hoàn tất nghi thức trao duyên:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng, minh chứng cho một mối tình đẹp đẽ mang tên Kim – Kiều. Dù dang dở, dù thuộc về quá khứ, nó vẫn vô cùng thiêng liêng với Kiều, trao lại cho em, lòng nàng không thể nén được nỗi xót xa, không nỡ. Đây chính là thời điểm lí trí và tình cảm của nàng xảy ra mâu thuẫn.

Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em. Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể. Nếu như trước đó, Kiều tỏ ra đầy dứt khoát, khôn khéo trong lời nói. Thì đến đây, câu từ đều thấm đượm sự tiếc nuối, xót xa. Từng lời nói như nghẹn lại, trực trào nức nở, mang nặng nỗi đau xé ruột xé gan của người con gái lần đầu rung động trước những ngang trái cuộc đời.

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan”

Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết. Nàng tự nhận mình bạc mệnh, nghĩ đến cả tình cảnh mình chết đi. Dù phải đến một thế giới khác, dù không thể trở lại cuộc sống bình thường và số phận mong manh. Kiều vẫn không hề thanh thản mà còn nặng lòng hơn với tình duyên, canh cánh vẫy vùng trong sự bất lực thác oan, đau đớn.

Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận từ bỏ đoạn tình cảm tốt đẹp này, cắt đứt mối liên hệ với chàng Kim. Vậy nên, khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, linh hồn của nàng dường như cũng đánh mất. Nỗi đau đớn bấy giờ không kìm nén nỗi mà trào dâng trong tâm trí bế tắc, túng quẫn:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Dù do tình cảnh ép buộc, dù do sóng gió tai ương bất ngờ ập đến. Nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phục chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Mọi bi kịch, mọi khổ đau và tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dường như đã lên đến đỉnh điểm. Song, chúng ta vẫn nghe thấy trong đó cả tiếng lòng cảm thông của tác giả và sự trân trọng cô gái trọng nghĩa tình.

“Trao duyên” là bức tranh tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ muôn vàn xót xa của Thúy Kiều. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Đồng thời, đại thi hào Nguyễn Du cũng thể hiện được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy. Không chỉ là tấm lòng đồng cảm xót thương, Nguyễn Du còn dường như hóa thân thành nhân vật để tự trải lòng. Nội tâm Thúy Kiều nhờ đó được tái hiện vô cùng toàn diện. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.

Có thể nói, đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ lục bát và các biện pháp tu từ. Đặc biệt qua các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn dằn vặt của Kiều khi trao duyên. Từ đó làm nổi bật hình ảnh người con gái trọng tình trọng nghĩa. Đoạn trích không chỉ làm nổi bật tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Mà còn thể hiện cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương và sự cảm thông của Nguyễn Du dành cho nhân vật.

Đoạn trích “Trao duyên” với những giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy thực sự đã mang đến cho chúng ta cái nhìn chân thực hơn về thời đại. Thời đại đồng tiền có thể chà đạp số phận con người, băng hoại đạo đức và đầy rẫy bất công. Để rồi rất nhiều năm qua đi, người ta vẫn nhớ mãi tác phẩm mang đầy giá trị nhân đạo “Truyện Kiều”.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 6

Trao duyen 2

Nguyễn Du là nhà thơ lỗi lạc của nền văn học Việt Nam. Thông qua kiệt tác “Truyện Kiều”, tác giả đã tái hiện đầy chân thực hình ảnh một xã hội phong kiến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX mục nát, bất công đã chèn ép, đùn đẩy con người đến bước đường cùng. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều, tuy chỉ là một trích đoạn ngắn nhưng đã phần nào thể hiện được diễn biến tâm lí phức tạp, sự giằng xé trong tâm trạng của nàng Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.

Sau khi bị thằng bán tơ hãm hại, gia đình gặp biến cố, Thúy Kiều đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai bị bắt giam. Đặt chữ hiếu lên trên cũng có nghĩa Thúy Kiều phải từ bỏ mối tình đẹp còn đang dang dở với Kim Trọng. Không thể thực hiện lời thề nguyền lứa đôi, Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình hoàn thành lời hứa với Kim Trọng dẫu trong lòng có bao đau đớn, xót xa:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Xét về địa vị trong gia đình, Thúy Kiều là chị, người có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Tuy nhiên, khi trao duyên, Thúy Kiều đã sử dụng những từ “cậy”, “chịu” và có những hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy càng trở nên tha thiết; không khí của cuộc trò chuyện vì vậy cũng nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Thúy Kiều sử dụng từ “cậy” mà không phải từ “nhờ” vừa tạo ra sự tha thiết trong lời nói vừa tạo ra sức nặng khiến Thúy Vân khó có thể từ chối. Thúy Kiều muốn Thúy Vân thay mình bù đắp cho chàng Kim nhưng cũng hiểu rằng như vậy sẽ bất công, thiệt thòi cho Vân nên đã có những hành động trang trọng, trái với lễ nghi: quỳ, lạy.

Quyết định trao duyên cho Thúy Vân không chỉ thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều với em mà qua những hành động trang trọng còn cho thấy Thúy Kiều thực sự đã coi Thúy Vân như ân nhân, người đã giúp đỡ mình trong cơn nguy khốn. Những lời nói của Thúy Kiều với Thúy Vân khi trao duyên đều vô cùng dứt khoát, mạnh mẽ “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, tuy nhiên đằng sau sự vô tư, mạnh mẽ ấy lại là nỗi đau thấu tâm can bởi với Thúy Kiều, mối tình với Kim Trọng đâu phải mối tình trăng gió thoáng qua mà là mối tình khắc cốt ghi tâm.
Sau khi thuyết phục em bằng những lời lẽ và hành động sắc sảo, khiến em không thể từ chối, Thúy Kiều đã có những tâm sự đầy thiết tha về mối tình dang dở của mình với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Kiều đã kể cho em về cuộc gặp gỡ và đính ước cùng chàng Kim. Những hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề” một lần nữa làm sống dậy những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ, sâu đậm với chàng Kim nhưng cũng gợi ra bao đau đớn, xót xa của thực tại khi hiện thực trái ngang đã chia rẽ tình yêu đôi lứa. Kim Trọng về quê chịu tang chú, Thúy Kiều chấp nhận bán mình cứu cha, đặt chữ hiếu lên trên chữ tình khiến cho tình duyên không thể vẹn tròn “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”

Thúy Kiều mang những tâm sự, nỗi đau từ tận đáy lòng để giãi bày cùng Thúy Vân chỉ hi vọng Vân có thể thấu hiểu và đồng ý với yêu cầu của mình. Để lời yêu cầu có thêm sức nặng, Thúy Kiều đã nhắc đến tình máu mủ và cả cái chết, thế mới thấy nguyện ước trao duyên của Thúy Kiều tha thiết, đau đớn đến nhường nào. “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” không chỉ là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể từ chối mà còn là những dự cảm không lành của Thúy Kiều về tương lai, số phận của mình.

Qua lời trao duyên của Thúy Kiều, ta có thể thấy được sự sắc sảo, thông minh, khôn khéo mà thấu tình trong lời thuyết phục của nàng. Để hoàn tất nghi thức của việc trao duyên, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” gợi ra đoạn tình cảm sâu nặng, thiêng liêng của mối tình Kim – Kiều. Vì nó gắn với tình yêu, những nguyện thề thiêng liêng nên khi trao lại cho Thúy Vân, Kiều lại có chút xót xa, không lỡ. Đến đây, ta có thể thấy được sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm của nàng Kiều. Nếu như những câu thơ trên, Kiều thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ đầy khôn khéo khi trao lời thì đến lúc trao kỉ vật lại thể hiện rõ sự tiếc nuối, xót xa. Lời nói như uất nghẹn, như chực trào nức nở đã thể hiện nỗi đau đứt ruột của người con gái trước những ngang trái của cuộc đời.

Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận chặt đứt mối quan hệ với chàng Kim. Sau khi trao lại những kỉ vật cho Thúy Vân, trong nỗi đau đớn cùng cực, Thúy Kiều thẫn thờ như người vừa đánh mất linh hồn, chỉ còn lại những độc thoại đau đớn cùng một tâm trí bế tắc, túng quẫn:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Đoạn trích “Trao duyên” đã giúp ta hiểu rõ hơn về tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du, đặc biệt trong việc khắc họa tâm trạng đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi quyết định trao duyên, đoạn tuyệt mối tình đẹp đẽ, thiêng liêng với chàng Kim. Cũng qua đây, tác giả lên án xã hội phong kiến bất công, đồng thời bày tỏ sự đồng cảm của mình với số phận đau khổ, ngang trái của con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội xưa.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 7

Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam, tác giả của thi phẩm đã đi sâu và luôn tồn tại trong tâm thức người đọc khi nhắc đến ông: “Truyện Kiều”. Truyện Kiều là sáng tác chữ Nôm đặc sắc từ nội dung đến nghệ thuật nhưng ấn tượng nhất đối với tôi đó chính là đoạn trích “Trao duyên” nằm trong tác phẩm nghệ thuật này.

Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của nam nữ như trong ca dao xưa ta vẫn thường gặp. Có đọc mới hiểu, trao duyên ở đây nghĩa là gửi gắm tình cảm, duyên phận của mình cho một người khác, nhờ người khác chắp nối tiếp tình cảm dở dang của mình. Như trong sự trao duyên của Kiều, hoàn cảnh thật éo le, cay đắng!

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Một sự nhún nhường gần như van vỉ, nàng phải lạy em mình như lạy một vị ân nhân, một bậc bề trên. Không phải là “nhờ” mà là “cậy”, từ “ cậy” mang bao nhiêu sự thiêng liêng, lòng tin tưởng kèm với “lạy” và “thưa”, tất cả gộp lại tạo nên sự thay bậc đổi ngôi giữa hai chị em. Và điều đó trở nên thật tài tình, Nguyễn Du như đọc thấu được nỗi lòng nhân vật.

“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

“Gánh tương tư” thật đâu có nhẹ nhàng gì. Nhưng gánh nặng vật chất thì còn có thể san sẻ, nhờ người khác giúp được chứ “gánh tương tư” mà nhờ người khác giúp la điều hiếm thấy xưa nay….Chắc hẳn nàng đã ở trong một tình cảnh khó khăn không còn cách nào khác là phải nhờ đến em “chắp mối tơ thừa”. Từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân vì trên hết tình máu mủ ai nỡ từ chối nhau?. Trong tình cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái

“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái.

Tình cảm Kiều Kim sâu nặng là thế, mặn mà là thế, “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” hỏi sao nàng Kiều không khỏi đớn đau, tê tái. Lòng nàng như ngàn kim đâm, rỉ máu xót xa lay động sâu tâm hồn người đọc. Nhưng khi sóng gió gia đình đến, cha bị bắt đi, nay chữ “hiếu” với chữ “tình” không thể song song… Quyết định chọn chữ “hiếu” bán mình chuộc cha là hy sinh chữ “tình”, coi như linh hồn nàng đã mất đi một nửa…Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu-tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói ngày xuân em hãy còn dài, đau đớn biết chừng nào!. Thuyết phục em thật khéo léo bằng tình chị em, tình máu mủ ruột thịt, Thúy Kiều vô hình chung đã khiến Thúy Vân không thể nào chối từ. Lời lẽ của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao chàng Kim có được hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác, chẳng lo rằng mình có thể sẽ trải qua bao nhiêu cay đắng đến “thịt nát xương mòn”. Thật là một cô gái có đức hy sinh lớn lao. Qua đó Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân đạo đáng trân trọng ở Kiều…

“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.”

Trao kỉ vật của mình và chàng Kim cho em, thật sự lòng nàng vẫn cắn rứt lời thề nguyền đêm trăng của mình và Kim Trọng. Nguyễn Du dùng hai hình ảnh đối lập “nên vợ nên chồng”, “người mệnh bạc” để gợi nỗi thương tâm, băn khoăn, chua xót của Kiều.

Toàn bộ đoạn trích là lời thoại của Kiều nói với Thúy Vân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng như đang nói với Kim Trọng chứ không còn nói với Thúy Vân nữa. Ý nghĩa sự chuyển đổi đối tượng cho thấy khả năng Nguyễn Du nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng của nhân vật, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du. Ngoài ra ta có thể thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du đối với nàng Kiều trong từng lời nói…

Đoạn trích “Trao duyên” thật sự đã làm rung động trái tim của không chỉ riêng tôi mà hẳn đã đi vào lòng không ít các bạn đọc khi xem “Truyện Kiều”.

Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 8

Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đoạn trích vô cùng xúc động, thể hiện tâm trạng xót xa, của nàng Thúy Kiều khi muốn trao lại tình cảm của mình với Kim Trọng nhường lại cho em gái của mình là Thúy Vân để bán mình chuộc cha và em trai đang bị giam trong ngục tù.

Tâm trạng đau đớn Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối lương duyên trời định của mình, từ bỏ những kỉ niệm ngọt ngào vẫn còn in đậm sâu sắc trong tâm can của nàng.

Mối tình Thúy Kiều và Kim Trọng là một mối tình vô cùng xứng đôi vừa lứa thể hiện một mối tình “Trai tài gái sắc” vô cùng viên mãn, nhưng vì tai biến của gia đình nên Thúy Kiều quyết định bán mình, hy sinh thân mình để gia đình cô được bình yên trở lại. Hành động “bán mình chuộc cha” thể hiện sự giằng xé trong tim của Thúy Kiều trước bên hiếu, bên tình vô cùng đau đớn.

Đoạn trích “Trao duyên” được thể hiện qua hình ảnh vô cùng ngược đời, khi Thúy Kiều làm chị nhưng lại quỳ lạy em mình là Thúy Vân, khi cô rơi vào tình thế là người phải nhờ cậy em mình. Những câu thơ thể hiện sự chua xót tận tâm trí của người con gái hiền lương, đoan trang, hiếu thuận Thúy Kiều.

Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Những câu nói như “cậy em” rồi thì “ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự nhờ vả vô cùng cấp thiết khẩn khoản của nàng Thúy Kiều dành cho em gái của mình là Thúy Vân, nên nàng mới tỏ vẻ vô cùng thật tâm, thể hiện một việc vô cùng quan trọng của nàng muốn nhờ cậy em gái của mình. Bởi tình duyên là việc đôi khi thật sự rất khó nhờ vả.

Trong hai câu thơ tiếp theo Thúy Kiều bắt đầu hồi tưởng lại mối tình duyên đang độ xuân thì tươi đẹp của mình với chàng Kim Trọng, thể hiện sự không nỡ của người con gái khi phải từ bỏ tình duyên của mình.

Thúy Kiều chua xót khi nghĩ tới Kim Trọng khi rồi đây khi mãn tang chú, chàng quay lại tìm nàng nhưng nàng đã đi xa mãi mãi, phiêu dạt tới phương trời nào nàng cũng không biết trước được tương lai của mình. Nhưng nàng yêu Kim Trọng nên khi nghĩ tới việc làm chàng đau khổ thất vọng vì mất người yêu thì trái tim nàng vô cùng đau đớn.

Thúy Kiều biết Thúy Vân không hề yêu Kim Trọng và ngược lại Kim Trọng cũng không có tình ý gì với em gái mình. Nhưng nàng lại muốn gắn kết se duyên cho hai người mà nàng yêu thương. Vì Kim Trọng là chàng trai vô cùng tuấn tú, có học thức biết lễ nghĩa là người tốt. Thúy Vân hiền ngoan thục nữ hai người thành một đôi thì Thúy Kiều có ra đi cũng yên lòng.

Chính vì vậy, Thúy Kiều đã kể lại những tình cảm trong lòng mình dành cho Kim Trọng như những lời tâm sự giữa hai chị em gái với nhau để Thúy Vân hiểu được ngọn ngành.

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Xã hội phong kiến thực sự vô cùng tàn nhẫn bất công với những cô gái đoan trang đức hạnh như Thúy Kiều và nhiều người con gái khác. Cuộc sống gia đình nàng đang êm ấm bình yên nhưng lại bị sóng gió ập đến khiến gia đình cô tan nát, gia biến, nhìn cha và em trai bị bắt vào ngục thân làm chị cả Thúy Kiều không thể nào đứng nhìn mà phải nghĩ cách để cứu cha và em trai của mình.

Thể hiện một người con gái vô cùng hiếu thuận, có trái tim nhân hậu luôn hy sinh vì người khác. Việc trao duyên cho em là Thúy Vân thể hiện việc Thúy Kiều là người luôn biết nghĩ cho người khác, lo lắng chu toàn mọi việc. Cô không chỉ nghĩ tới cha mẹ, người thân trong gia đình mà còn thương Kim Trọng người thân của mình.

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Thúy Kiều mong Thúy Vân nghĩ tình chị em trong gia đình những người thân máu mủ ruột già mà thương cho phận của chị mình, thương cho nỗi khổ mà Thúy Kiều đang phải gánh chịu mà chấp nhận lời đề nghị của mình. Thúy Kiều cũng nói rõ rằng nếu Thúy Vân chấp nhận lời đề nghị của mình thì dù thịt nát xương tan nơi xa xôi nàng cũng ngậm cười.

Trong đoạn trích “Trao duyên” Thúy Kiều đã mang kỷ vật hẹn ước định tình của mình với Kim Trọng trao cho Thúy Vân thể hiện một tấm chân tình mối tình tình chị duyên em từ nay đã được để lại cho Thúy Vân. Thúy Vân sẽ thay chị mình là Thúy Kiều chăm sóc lo lắng yêu thương người yêu của chị là Kim Trọng một hành động vô cùng nhân văn tình người của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.

Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai

Kỷ vật của Thúy Kiều là một chiếc trâm và một bức tờ mây, thể hiện ước vật hẹn ước của nàng Thúy Kiều với Kim Trọng đã từng nguyện thề sẽ chờ đợi nhau bên nhau trọn đời. Nhưng nay mọi thứ chỉ là kỷ niệm tồn tại trong trí nhớ ký ức của Thúy Kiều. Nàng đã trao lại những kỷ niệm của mình cho Thúy Vân thể hiện việc dứt tình cương quyết ra đi của nàng.

Dù chia tay nhưng trong tâm hồn của Thúy Kiều vẫn luôn nhớ tới Kim Trọng vẫn nặng lời thề nàng đã hứa với chàng. Chính vì vậy, Thúy Kiều đã đau đớn thốt lên rằng “Ôi kim lang hỡi kim lang thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây

Thúy Kiều đã gửi tới người tình của mình trăm lời xin lỗi khi phụ tình của chàng, không giữ trọn vẹn lời thề nguyên là người bội bạc phụ tình trước. Nhưng hoàn cảnh gia đình nàng khiến cho Thúy Kiều không có sự lựa chọn nào khác.

Nghệ thuật so sánh đặc sắc của Nguyễn Du khi so sánh phận của mình với vôi một thứ trắng bạc, có sức làm phai nhạt mài mòn nhiều thứ.

Đoạn trích “Trao duyên” là một đoạn tích vô cùng hay thể hiện tính nhân văn của nó nói lên tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi phải lựa chọn bên hiếu và tình, nàng đã chọn chữ hiếu, nhưng vô cùng xót xa khi nghĩ tới tình duyên của mình.

Tình duyên của người con gái nặng lời thề nhưng nay phải thành người bội bạc phụ tình người con trai mình đã hẹn ước, nàng thấy xót xa khi không giữ được lời thề hôm nào với Kim Trọng.

Recommended For You

About the Author: Bảo